Trần Kiêm
Đoàn
THƯ GỬI TIẾN SĨ
NGUYỄN ĐỨC KIÊN
Ngày 30 tháng 5 năm 2018
Thư gửi: Tiến sĩ Nguyễn Đức Kiên
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc Hội Việt Nam

Nguồn: Các trang mạng Xă hội 30-5-2018
Kính thưa TS. Nguyễn Đức
Kiên,
Trả lời câu hỏi : “Về vấn đề an ninh - quốc pḥng, ông có lo ngại
khi thời gian thuê đất dài và các đặc khu nằm ở vị trí khá nhạy cảm?”
TS. Nguyễn Đức Kiên - Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội đă nói:
“Tại sao cứ sợ ảnh hưởng của Trung Quốc tại các đặc khu. Tại sao ở
Úc, Pháp, Mỹ... đều có Chinatown. Ở California ḿnh có Little Saigon. Ở
đó toàn người Việt, nói bằng tiếng Việt, th́ bang California có lo ngại
vấn đề an ninh quốc pḥng hay không?”
Là một người Việt có song tịch (Mỹ -Việt), đă sống nửa đời ở Việt Nam và
nửa đời ở Mỹ, tôi thấy có trách nhiệm góp ư với ông và các quan chức
đang ở vị thế lănh đạo trong nước nhằm làm sáng tỏ sự so sánh hời hợt và
suy luận quá đơn giản của quư vị về vấn đề ở tầm mức quốc gia như thế
nầy.
Khi nói đến những Khu Vực Đặc Biệt - Đặc khu (Special Zones)
của một đất nước th́ cần phải hiểu ngay rằng đấy là những khu vực nằm
trên một quốc gia có chủ quyền và toàn vẹn lănh thổ của riêng đất nước
đó. Tuyệt nhiên không có ảnh hưởng hay sự nhúng tay làm áp lực của nước
ngoài bất cứ từ đâu đến. Từ năm 1934, Mỹ đă có những Đặc khu Thương măi
với Nước ngoài (Foreign Trade Zone – FTZ) và Trung Quốc mới bắt đầu
thành lập các Đặc khu Kinh tế (Special Economic Zone – SEZ) từ năm 1980.
Trong chiến tranh Việt Nam, miền Nam đă có những Đặc khu Quân sự như năm
1962 có Đặc khu Rừng Sát, Đặc khu Quảng Đà nhưng ở vào một vị thế và yêu
cầu chiến lược cấp thời.
Các khu dân cư và buôn bán ở tại Pháp, Úc, Canada, Hoa Kỳ của các nhóm
nước ngoài như Phố Tàu (China Town - Quartier Chinois), Phố Hàn (Korean
Town), Phố Việt (Little Saigon) là hoàn toàn khác với
những “Đặc khu” như Ts. Kiên đă nêu ra làm ví dụ để so sánh và suy diễn
với những “Đặc khu” của người Trung Quốc trên đất nước Việt Nam.
Tôi đă đi qua và đă tận mắt chứng kiến cũng như t́m hiểu trong quần
chúng và chính ḿnh nếm trải sự xa lạ, vong thân, vong quốc khi tiếp cận
với những “Đặc khu” Trung Quốc tại Huế (Tân Mỹ), Đà Nẵng (Băi biển
Sơn Chà), Nha Trang (Đường Duy Tân dọc biển). Những nơi đó, người
Trung Quốc đă ngang nhiên biến những mảnh đất thân yêu Việt Nam thành
những “Tử cấm Thành” đại Hán của riêng họ. Họ che chắn bịt bùng như một
sào huyệt riêng tư, người Việt Nam không có quyền lai văng đến đó. Ngoài
ra, những nhân sự người Trung Quốc là những kẻ mang sẵn tinh thần kiêu
căng nước lớn, giàu có. Chúng nghênh ngang sẵn sàng khiêu chiến, gây sự
với người Việt Nam ló mặt tới căn cứ địạ của họ. Và cũng đă có tin đồn
phát tác rộng răi trong quần chúng rằng, có những t́nh huống éo le và
mỉa mai hơn nữa là các quan chức Việt Nam cũng bị cấm không được bước
chân vào đặc khu nhượng địa của người Trung Quốc trên đất nước Việt Nam.
Trong khi đó, những khu Phố Tàu, Phố Hàn, Little Saigon… tại Hoa Kỳ và
các nơi khác chỉ là một h́nh thức văn hóa chủng tộc trong một quốc gia
hợp chủng. Nếu Ts. Nguyễn Đức Kiên dụng công t́m hiểu cẩn thận hơn th́
đă không làm một sự so sánh khập khiễng và phiến diện “đau ḷng dân
Việt” đến như thế.
Những nơi đó không phải là một quốc gia trong một quốc gia như
các Đặc khu Trung quốc trên đất nước Việt Nam hiện nay. Như khu Little
Saigon lớn nhất ở Santa Ana chẳng hạn là một ví dụ điển h́nh phân biệt
giữa cái gọi là đặc khu và khu phố thương măi b́nh
thường.
Toàn khu phố Little Saig̣n là sở hữu của nhiều chủ nhân, nhưng địa bàn
đất đai, kiến trúc là tài sản quốc gia Hoa Kỳ. Giới chủ nhân kinh doanh
hay sở hữu địa ốc hầu hết là công dân Hoa Kỳ. Tất cả đều phải tuyệt đối
tuân thủ luật pháp quốc gia từ thượng vàng đến hạ cám. Tiếng Anh là ngôn
ngữ hành chánh chính thức (official language) mà từ một cái hóa đơn bán
lẻ đến những văn tự giao dịch hàng ngày hay các văn kiện quan trọng đều
phải dùng tiếng Anh. Những chủ nhân kinh doanh thương măi hầu hết sử
dụng song ngữ Anh-Việt mà tiếng Việt th́ tùy nghi (optional), nhưng
tiếng Anh là bắt buộc (mandatory). Không biết nói tiếng Anh th́ phải
dùng thông dịch viên chứ không phải như phường ú ớ chỉ biết rặt tiếng
Tàu trên xứ Việt. Mọi nguyên tắc và quy tŕnh sinh hoạt đều phải theo
đúng tinh thần văn hóa, xă hội và pháp luật của Hoa Kỳ. Bất cứ một biểu
hiện hay sự việc xảy ra lớn nhỏ nào đều do cơ quan an ninh Hoa Kỳ đảm
trách. Mọi sự gian dối, phá rối, bạo hành, phạm pháp, t́nh nghi… dù ở
mức độ lớn nhỏ nào đều do cơ quan công quyền xử trị tức khắc.
Thưa Ts. Nguyễn Đức Kiên,
Là người có chút học vị, chắc ông khó có thể phủ nhận được thực trạng
Việt Nam hôm nay là đang nắm trong chiến dịch “Chinh phục bằng vũ
khí mềm” của Trung Quốc đang diễn ra quyết liệt tại Phi Châu,
Nam Mỹ và Đông Nam Á mà nước Việt Nam chúng ta đă và đang bị lún sâu vào
con đường “bán nước” theo nghĩa thật, nghĩa đen, nghĩa minh xác nhất của
nó. Đó là sự kiện (không c̣n là hiện tượng nữa) diễn ra quá rơ
ràng rằng: đất nước Việt Nam, từ sông núi, biển trời tới đền đài, phố
chợ… từ Bắc chí Nam đă bị bán và đang bị bán từng phần cho đạo quân vũ
khí mềm Trung Quốc được trang bị và tiềm ẩn dưới nhiếu danh nghĩa khác
nhau. Nghĩa là họ chở tiền chứ không phải chở xe tăng, đại bác
đi chinh phục Việt Nam và thế giới nữa. Bất hạnh thay cho vận nước là
đồng tiền chinh phục của Trung Quốc gặp đạo hùng binh tham nhũng Việt
Nam kẻ tung người hứng th́ c̣n chi là gia tài tổ quốc!
Hệ lụy của đất nước Việt Nam trước nạn xâm lăng của Trung Quốc c̣n dài.
Vai tṛ kẻ sĩ ngày xưa hay trí thức ngày nay đă được đặt định: “Đất nước
an nguy, người thường phải gánh” huống chi là thành phần trí thức và
quan chức như quư ngài. Có một đại biểu trong Quốc Hội quư vị thuộc đơn
vị Quảng Nam đă lên tiếng xác định với đồng viện rằng: “Có đặt vấn
đề đúng, mới đưa ra cách giải quyết đúng!” Quả nhiên là vậy.
Cách đặt vấn đề của Ts. Nguyễn Đức Kiên về những Đặc khu đang hiện hữu
của người Tàu trên đất Việt là rơ ràng chủ quan và tùy tiện; nếu không
muốn nói là mỵ dân và sai lầm. Một nhà khoa bảng giữ chức vụ trọng trách
trong Quốc Hội của một nước 95 triệu dân như ông mà nh́n sự thoái trào
của đất nước như là một chuyện qua đường bâng quơ và đơn giản như vậy
th́ làm sao t́m ra một con đường khả thi để giúp dân, giữ nước.
Đây không chỉ là sự góp ư riêng đối với trường hợp Ts. Nguyễn Đức Kiên
mà là chung với các quan chức đang nằm trong vị thế lănh đạo Việt Nam.
Rằng là: Cần đặt vấn đề đúng đối với sự xâm lăng quân sự trên các vùng
biển đảo đến cuộc vạn lư trường chinh bằng vũ khí mềm của Trung Quốc vào
Việt Nam. Cần bạch hóa những Đặc khu nhượng địa để thế hệ con cháu mai
sau không thống hận, nguyền rủa thế hệ đàn anh bất tài, tham bạo. Đất
nước là đất nước chung, một thế lực có thể nhất thời giữ độc quyền cai
trị; nhưng không ai là kẻ độc quyền yêu nước. Mong thay.
Đồng thời với đôi điều góp ư trên đây, tôi cũng đă viết và tŕnh bày về
nạn du lịch của du khách Trung Quốc tại Việt Nam và trên thế giới để có
thêm thông tin về quan hệ nhân văn và văn hóa ứng xử của người Trung
Quốc nội địa và thế giới bên ngoài trong thời hiện đại.
http://www.trankiemdoan.net/van/kysu-hoiuc/dulichdichtau.html
Là một người con dân Việt sống xa quê hương, tôi chỉ xin có đôi điều góp
ư chân thành.
Xin cám ơn quư vị.
Trân trọng,
Trần Kiêm Đoàn, MSW; Ph.D
California. USA & Huế. VN
bút luận : tâm lư - triết học - xă hội
|