Trần Kiêm Đoàn
BIỂN LỬA GIỮA HOA
SEN

Giở
lại lịch sử Phật giáo, một câu chuyện cổ sơ, ṃn
nhẵn, nhưng bao giờ cũng mới. Mới không phải v́
sự hùng biện của ngôn từ, mà v́ sự im lặng. Sự
lặng im đầy chánh pháp.
Theo Cảnh Đức Truyền Đăng Lục th́ vị tổ đầu tiên
của Thiền tông Trung Hoa là Đạt Ma Tổ Sư. Cuộc
đối thọai giữa Tổ Đạt Ma và vua Lương Vũ Đế
(502-549) được truyền tụng hơn 15 thế kỷ qua đă
trở thành một biểu tượng về tinh thần phá chấp
khi nói đến Thiền trong đạo Phật. Truyền Đăng
Lục ghi cuộc đối đáp này như sau:
Lương Vũ Đế hỏi Tổ Đạt Ma: “Trẫm
từ khi lên ngôi đến nay đă cho xây chùa, dựng
tượng, in kinh, độ tăng rất nhiều. Vậy trẫm có
công đức ǵ chăng?”
Tổ Đạt Ma đáp: “Chẳng có
công đức ǵ cả.”
“Tại sao làm Phật sự nhiều
như thế lại không có công đức?”
“Bởi v́ đó chỉ là những
tiểu quả mà thôi. Đấy chỉ là cái nhân giả lập
như bóng theo h́nh, có mà chẳng thật.”
“Vậy phải làm thế nào mới
được xem là công đức?”
“Phải tự ḿnh rèn cho trí
trong sạch, tâm thanh tịnh, tánh rỗng lặng, thân
an vui, như thế mới là Công Đức. Công đức ở nơi
tự tánh, chứ chẳng phải do vật chất bên ngoài
mang đến.”
Vua hỏi tiếp: “Chân lư tối
cao của bậc thánh là ǵ?”
“Khi tỉnh ra, thông suốt
rồi th́ không có ǵ gọi là thánh cả.”
“Người trước mặt trẫm là
ai?”
“Chẳng biết!”
Vua Lương Vũ Đế không lănh
hội được, cuộc đối thoại chấm dứt. Tổ Đạt Ma
biết căn cơ không hợp, lặng lẽ lên núi Tung Sơn,
chùa Thiếu Lâm, trọn ngày ngồi thiền đối diện
với bức tường trong suốt chín năm.
Khi không c̣n đối thoại th́
rút vào im lặng là đạo lư của tư duy. Nói để mà
nói, tranh tụng hơn thua con gà hay cái trứng có
trước, là sự rỗng ṃn của nếp nghĩ và cũng là
ngơ cụt về những ư thức mới.
Bao nhiêu sách vở hơn ngh́n
năm sau vẫn chưa nói hết được phần tinh túy nhất
của sự im-lặng-muôn-trùng-tiếng-nói nầy.
Trong thế giới Thiền, phải
chăng ngôn ngữ chỉ là quy ước nghèo nàn, thô lậu;
có khi ồn ào mà vô nghĩa, bất lực trong sự
chuyển tải những suối nguồn tư tưởng thâm diệu
của con người?!
Khi nói đến thiền ngôn và
thiền ngữ trong nghệ thuật Thiền, thiền sư Khánh
Hữu, trụ thế ba trăm năm sau Sơ Tổ Đạt Ma, đă
làm bài kệ “Chân ngôn kư”, có đọan đại ư
nói rằng: Đáng xấu hổ thay những người tự nhận
ḿnh là Phật tử lại dùng miệng lưỡi dung tục để
nói chuyện Thiền môn phi Phật pháp. Đáng thương
thay những người chưa nhảy qua miệng giếng tri
thức đă lạm bàn chuyện mây trời. Và tội nghiệp
thay những kẻ ngậm lời quỷ sứ phun mặt chân nhân.
Cái hiện trạng đáng xót xa "Ngậm
lời quỷ sứ phun mặt chân nhân" h́nh như
không chỉ xẩy ra ngh́n năm trước mà vẫn lập lại
hoài cả ngh́n năm sau và thời nào cũng có...
Người viết bài nầy vốn là kẻ vô can thế mà bỗng
cảm thấy dị ứng trước một hiện tượng nóng bỏng,
xin tạm gọi là "Hiện tượng luận bàn về thầy/sư
ông/thiền sưThích Nhất Hạnh"! "Vô can" v́
tôi chẳng có một liên hệ cá nhân nào với thầy
Nhất Hạnh, ngoài việc đọc một số sách của Thầy
đă xuất bản trong ṿng năm chục năm qua như muôn
ngh́n người khác. Xa hơn thế nữa, tôi đă viết
bài tham luận "Sự thống nhất cần thiết của
tính thuần Việt và Hán Việt trong ngôn ngữ Phật
giáo Việt Nam" để nói lên thái độ không tán
đồng về việc thầy Nhất Hạnh chủ xướng đổi từ
Phật thành "Bụt". Theo chỗ hiểu của tôi th́ Bụt
là một hiền thánh, một vị "Tiên Đất" thuần túy
Việt Nam. Cô Tấm ngày xưa gặp cơn họan nạn kêu
Bụt, Bụt hiện lên giúp đỡ. Trẻ con Việt Nam hát
đồng dao về Bụt: "Bụt khéo như Tiên, Bụt hiền
như Phật, Bụt thật như cơm...". Bụt mang căn
tánh từ bi của Phật nhưng không phải là Phật.
Về mặt đạo pháp, tôi vẫn c̣n xa lạ với khuynh
hướng hành Thiền đậm tính "trú xứ" của Làng Mai.
Và về sau nầy, tôi cũng không c̣n thú đọc những
tác phẩm giảng pháp theo mô thức "văn nói" do
các thiện giả ghi lại đă làm nhạt bớt tính sáng
tạo văn chương, vốn rất uyển chuyển và tài hoa
của thầy Nhất Hạnh. Nói tóm lại là khi tự soát
xét lại chính ḿnh, tôi không có lư do để đứng
về phía đả kích gay gắt hay phía ca ngợi nhiệt
thành thầy Nhất Hạnh. Được học tập từ nền văn
hóa Việt Nam và được cơ hội tiếp thu thêm văn
hóa xứ người trong một khoảng thời gian dài gần
ngang nhau ở quê nhà và quê người (trên dưới 25
năm mỗi phía), tôi tôn trọng sự công bằng và
thẳng thắn trong đối thọai. Nói lên lời ủng hộ
hay bày tỏ thái độ phê phán về một nhân vật nào
đó là sinh hoạt b́nh thường và lành mạnh của đời
sống tâm lư và tri thức cần được duy tŕ và phát
huy trong một xă hội nhân văn. Tuy nhiên, xă hội
nhân văn đ̣i hỏi cung cách văn hóa tối thiểu
trong tiếng khen cũng như lời chê. Khen ai lựa
lời thích hợp đă khó; chê ai chọn cách tŕnh bày
mang tính thuyết phục lại càng khó hơn. Cái
triết xử thế khôn khéo của dân gian Việt Nam: "Chim
khôn kêu tiếng rảnh rang. Người khôn ăn nói dịu
dàng dễ nghe..." không đ̣i hỏi địa vị và
bằng cấp, mà chỉ cần một tâm hồn trong sáng.
Un đúc từ lịch sử dựng nước và giữ nước gian nan;
chịu đựng những thăng trầm suốt ḍng lịch sử
ngh́n năm Bắc thuộc, trăm năm Tây đô hộ và bao
năm chinh chiến... đă để lại cho người Việt một
lối sống mềm dẻo, lối xử thế khôn khéo. Dân tộc
nào cũng có mặt "giương" để chiến đấu và mặt "thủ"
để sinh tồn. Đấy là lối ứng xử tinh tế, biết
tiến, biết thoái và biết lách ḿnh né tránh kẻ
mạnh đúng lúc để có lợi, để yên thân, để tránh
sự đương đầu trực diện với một đối thủ mạnh hơn.
Nếp sinh hoạt tinh thần đó là tiền đề tạo ra
nguồn tâm lư tiểu xảo. Về mặt tích cực, tâm lư
tiểu xảo là vũ khí để sống c̣n của dân tôc Việt
Nam trong thế thường xuyên phải đương đầu với
những thế lực cường bạo xâm lăng. Tuy vậy, di
lụy của nguồn tâm lư tiểu xảo đă sản sinh ra
những nhà "trí thức khôn vặt" - những ông Trạng
Cười Việt Nam - vốn là những du tử thông minh,
lanh lợi nhưng thường chỉ có những hành trạng
rắn mắt, quyền biến mẹo vặt trong cuộc sống như
Trạng Quỳnh, Trạng Bùng, Trạng Lợn... Và cũng
chính cái di lụy tâm lư tiểu xảo nầy đă tạo ra
nếp nghĩ nhược tiểu và tâm lư cạnh tranh tiêu
cực. Trong cuộc cạnh tranh, thay v́ nâng ḿnh
cao hơn đối thủ để tự chứng minh phẩm chất ưu
việt của ḿnh so với đối thủ th́ người mang tâm
lư tiểu xảo lại đứng yên từ vị trị yếu kém của
ḿnh để vùi dập đối thủ, cố đè bẹp đối thủ xuống
bằng những phương tiện hạ sách như nói xấu, châm
biếm, vu vạ, đặt điều thiếu công bằng hợp lư và
không hợp với tầm vóc của đôi bên.
Cái giá phải trả của tâm lư tiểu xảo trong lĩnh
vực nhân văn là người Việt tuy thông minh và
sáng tạo, tự hào có bốn ngh́n năm văn hiến,
nhưng chưa un đúc được một triết gia, một nhà tư
tưởng hay một triết lư dân tộc độc lập có tầm cỡ
trong lịch sử tư tưởng thế giới. Nếp nghĩ nhỏ
chỉ tạo ra được những sản phẩm nhỏ. Thói quen
tiểu xảo là chuyên đè bẹp người bằng phương tiện
nhỏ nhen và vô minh. Không có thiện xảo mà chỉ
có thuần tiểu xảo th́ chính tác nhân tiểu xảo đó
là kẻ trước tiên tự d́m ḿnh xuống trước mặt đối
thủ của ḿnh và vô h́nh chung hạ thấp nhân cách
của ḿnh.
Trong rất nhiều trường hợp Thầy Nhất Hạnh đă bị
nh́n từ một góc độ tâm lư tiểu xảo như thế.
Một người chỉ cần mang cái "nghiệp" của người
cầm bút thôi cũng đủ bị đặt trên dàn phóng của
sự khen chê rồi. Huống hồ người đó c̣n là một
nhà sư có tăng đoàn và đường lối riêng, một luận
sư mang khuynh hướng cải cách, một khuôn mặt nổi
bật trong cộng đồng tôn giáo thế giới như thầy
Nhất Hạnh th́ biển đời khen chê làm sao tránh
khỏi.
Những b́nh luận, nhận định, phân tích, chỉ trích,
tán dương... xuất hiện quanh chuyến đi Việt Nam
của thầy Nhất Hạnh là một phản ứng tất yếu, một
h́nh thái sinh hoạt tinh thần lành mạnh và cần
thiết.
Lời khen chê xưa nay vốn là chuyện đời thường.
Nhưng khi sự lộng ngôn và hư luận lại khoác áo "trung
ngôn và chính luận" lập đi lập lại một cách dai
nhách v́ thiếu chất tươi của tri thức như ḅ sữa
gặm cỏ cháy th́ quả là chuyện "lạ thường" trong
một xă hội b́nh thường! Diễn đàn thông tin và
nghị luận và quần chúng đang bị coi thường quá
đáng. Với tŕnh độ dân trí của người Việt hải
ngoại sau mấy thập niên tiếp cận với văn hóa Âu
Mỹ, những khuynh hướng "ngu dân" coi thường quần
chúng tự nó đă chôn vùi vai tṛ và tác dụng của
chính nó. Hẳn nhiên, quần chúng thầm lặng của
thế kỷ 21 đă quá đủ già dặn về cả hai mặt thông
tin và tri thức để cười rất "thiền" với những kẻ
đáng thương như lời sư Khánh Hữu!
Trong một bối cảnh văn hóa lành mạnh, hiện tượng
luận bàn về thầy Nhất Hạnh đáng lẽ phải trổ hoa,
đâm chồi nẩy lộc về nhiều mặt như tôn giáo,
triết học, giáo dục... th́ thực tế lại đang phát
triển theo chiều ngược lại.
Sự "thoái trào" của ư thức và tâm thức đáng tiếc
nầy xẩy ra v́ sự dung tục quá đáng, đôi khi đến
chỗ cực đoan của phương pháp luận bàn. Nói về tu
mà dùng lời tục; nói về thiền mà thiếu mất một
phong thái và một ngữ cảnh về thiền; nói về Phật
giáo mà bám riết vào tinh thần chấp trước cực
đoan phi Phật giáo... là đem sự ồn ào vọng động
để truy t́m cái chân tánh rỗng lặng của nhà Phật.
Phải chăng đây là sự nghịch lư mà một số người
đang vô t́nh hay cố ư theo đuổi?!
Như đă tŕnh bày ở trên, tôi không phải là
"fan", là đệ tử của thầy Nhất Hạnh nên rất có
thể sẽ không làm bằng ḷng những phía cực đoan.
Do vậy, những ḍng viết về thầy Nhất Hạnh sau
đây là những hiểu biết rất khiêm tốn và đồng
thời cũng chỉ là những cảm nghĩ riêng của cá
nhân ḿnh để mong chia sẻ với những người Việt
có tâm hồn, khối người Việt tha hương tỉnh táo
nh́n thế sự qua cái nh́n khách quan và thầm lặng.
*
Huế là một thành phố nhỏ nhắn
miền Trung, một kinh đô cũ của nước Việt Nam
dưới triều nhà Nguyễn. Huế c̣n được mệnh danh là
một "thủ đô Phật giáo" trong lịch sử Phật giáo
Việt Nam thời cận đại.
Mấy trăm cơ sở chùa chiền tu viện của Huế không
mang dáng vẻ phô trương mà ẩn ḿnh trong mầu
thiên nhiên của núi sông cây cỏ. Các tu sĩ Phật
giáo ở Huế cũng ḥa vào đời sống đạm bạc của
quần chúng mà đặc biệt là quần chúng b́nh dân
theo đạo Phật. Các tu sĩ nhỏ tuổi thường được
gọi một cách thân mật là "Chú". Các tu sĩ trẻ
xưng là "Thầy" và quư Thầy cao niên xưng là "Ôn"
(Ôn = Ông, khác với “ôn đới”, “ôn hoà”). Những
danh xưng đầy vẻ "đạo cao" như Thiền sư, Sư ông,
Đại đức, Thượng tọa, Ḥa thượng... không hiện
diện trong tương quan sinh hoạt thực tế hàng
ngày của đời sống Phật giáo Huế. Và những chức
vụ "đức trọng" như Thượng thủ, Pháp chủ, Tăng
thống, Pháp sư, Tôn sư, Tổ sư... lại càng xa lạ
với tinh thần Phật giáo hơn. Một nét khiêm cung
và t́nh cảm điển h́nh trong văn hóa Phật giáo
Huế là các thiện nam, tín nữ thường chỉ biết đến
các bậc tu hành đạo cao đức trọng qua danh tiếng
của ngôi chùa và tiếng "Ôn" rất điềm đạm và từ
ái như: Ôn Từ Đàm, Ôn Từ Hiếu, Ôn Linh Mụ, Ôn
Tây Thiên, Ôn Châu Lâm, Ôn Trà Am...
Thầy Thích Nhất Hạnh là một tu sĩ Phật giáo xuất
thân từ Huế.
Với một bối cảnh tôn giáo như thế, trong bài
viết nầy, người viết xin được dùng danh xưng "Thầy"
rất gần gũi thay v́ phải dùng những danh từ tôn
xưng xa lạ với truyền thống Phật giáo, như đă
tŕnh bày ở trên khi nói về thầy Thích Nhất Hạnh
và quư tu sĩ Phật giáo khác.
Thầy Thích Nhất Hạnh là một trong những tu sĩ
Phật giáo Việt Nam được cộng đồng tôn giáo thế
giới biết đến nhiều như: Thầy Thích Thiên Ân,
thầy Thích Minh Châu, Thầy Thích Tuệ Sỹ, Ni sư
Thích Nữ Trí Hải...
Năm 1966, thầy Nhất Hạnh rời Việt Nam: Hoa sen
trong biển lửa!
Năm 2004, thầy Nhất Hạnh về Việt Nam: Biển lửa
giữa hoa sen?!
Bốn mươi năm: Một chặng đường lửa dậy!
Kinh Pháp hoa nói về lửa: "Ba cơi không an,
chẳng khác nhà lửa". Lửa tham sân si; lửa nghi
hoặc chấp trước; lửa kiêu mạn; lửa ái dục... cứ
ngấm ngầm ngày đêm thiêu đốt tâm thức của chúng
sanh.
Lửa tam muội, lửa ta bà, lửa từ bi, lửa hận thù,
lửa vô minh, lửa khai sáng và lửa duyên nghiệp...
vẫn trùng trùng dấy lên trong từng nhấp nháy của
cuộc sống. Có những ngọn lửa dập tắt được, nhưng
vẫn có những ngọn lửa vô h́nh không dập tắt được.
Người ta vẫn phải sống với lửa hàng ngày. Con
người tồn tại v́ con người biết sống với lửa.
Không để bị lửa đốt cháy mà biến lửa thành một
hơi ấm, một phương tiện thiện xảo cho đời sống
thể chất lẫn tinh thần.
Hoa sen là một biểu tượng của tinh thần Phật
Giáo. Đó là ư niệm "gần bùn mà chẳng hôi tanh
mùi bùn". Đó là h́nh ảnh bàn tay mở ra hứng lấy
những khổ đau, hận thù, sinh diệt triền miên.
Nếu chỉ có mùa đông lạnh lẽo mà không có lửa hạ,
sẽ không có hoa sen. Nếu không có khổ đau của
chúng sinh th́ đức Phật và đạo Phật không có lư
do ra đời và tồn tại để giải bớt khổ đau. V́ thế,
h́nh tượng hoa sen trong biển lửa là h́nh ảnh
dấn thân của người Phật tử giữa cuộc đời đầy
tương tranh và đau khổ. Biển lửa giữa hoa sen là
biểu tượng của sự trang bị tinh thần và trí tuệ
Phật tánh, bồ tát hạnh, sẵn sàng dấn thân vào
đau khổ để diệt mầm đau khổ và tiếp cận với
tương tranh để hóa giải tương tranh.
Thầy Nhất Hạnh trở về Việt Nam sau 40 năm lưu
vong trong một hoàn cảnh như hiện nay là đi
trong biển lửa giữa hoa sen.
Vào những năm đầu thập niên 1960, bên cạnh đời
sống tu sĩ, thầy Nhất Hạnh c̣n là một nhà văn,
nhà thơ có khuynh hướng cải cách và gần gũi với
tuổi trẻ qua h́nh thức mang triết lư tư tuởng
Phật giáo và nếp sống thiền vị vào những tác
phẩm sáng tạo văn chương. Những tác phẩm văn học
của thầy Nhất Hạnh như T́nh người (bút
hiệu Tâm Quán), Nẻo về của ư, Nói với tuổi
hai mươi, Bông hồng cài áo, Đạo Phật hiện đại
hóa... đă gây một tiếng vang và có tác động
tích cực vào đại chúng Việt Nam trong nội bộ
Phật giáo cũng như ngoài xă hội, đặc biệt là
giới trí thức và tuổi trẻ miền Nam đương thời.
Cuộc chiến tranh Việt Nam càng ngày càng bạo
liệt trong nước, th́ tiếng nói phản chiến kêu
gọi hoà b́nh của cộng đồng quốc tế càng tăng
cường độ ở các nước châu Mỹ và châu Âu. Ngay cả
Đức Giáo Hoàng Paul VI, khi đề cập đến cuộc
chiến Việt Nam, cũng đă lên tiếng trong Hội
trường Liên hiệp quốc ở New York:"Hăy ngưng
chiến tranh. Đừng đánh nhau nữa, đừng bao giờ để
chiến tranh tái diễn!" (Stop the war. No
more war, never again war).
Sáng lập trường Trường Thanh niên Phụng sự Xă
hội năm 1965 là một khuynh hướng dấn thân rất
mới của tuổi trẻ theo kiểu Kiboutz của Do Thái.
Đó là trường huấn luyện thanh niên thiện nguyện
với chiều hướng phục vụ làng xă Việt Nam bằng
sức bật, kiến thức, tài năng và tấm ḷng của
tuổi trẻ, chung tay xây dựng đất nước khi chiến
tranh chấm dứt. Bên cạnh đó là những tác phẩm
văn chương mang tiếng nói tha thiết kêu gọi ḥa
b́nh của thầy Nhất Hạnh, một cách vô h́nh chung,
bị coi như một sự cổ xúy và đồng lơa với phong
trào phản chiến đang nổ ra trên toàn thế giới và
tại các thành thị miền Nam.
Tháng 5 năm 1966, thầy Nhất Hạnh được đại học
Cornell ở Mỹ mời diễn thuyết ḥa b́nh. Với tuổi
39, đây là bước khởi đầu cho những loạt diễn
thuyết và gặp gỡ các nhân vật thời danh như
Robert McNamara, Eugene McCarthy, Martin Luther
King và được hội kiến với đức Giáo Hoàng Paul VI
vào ngày 16 tháng 7 năm 1966. V́ những cuộc vận
động hoà b́nh nầy, Chính phủ miền Nam không cho
thầy Nhất Hạnh về lại nữa. Ở ngoại quốc, lập
trường chính trị trong công cuộc vận động ḥa
b́nh của thầy Nhất Hạnh phối hợp với những nhân
vật nổi tiếng trong nhiều lĩnh vực khác nhau tại
Âu Châu cũng như Mỹ Châu, được báo chí ngoại
quốc nhận định như sau:"Thích Nhất Hạnh và những
thành viên Phật giáo vận động trong phong trào
ḥa b́nh không về phe Cộng sản ở miền Bắc, cũng
không về phe chống Cộng ở miền Nam. Họ cũng
không mưu cầu một quyền lực chính trị nào cho
chính họ." (Thich Nhat Hanh and his fellow
Buddhist activists sided neither with the
communists north nor the anti-Communist south.
Nor did they harbour desire for political
themselves. Stephen Batchelor. TCN. GD 2001).
Trong số những lời diễn thuyết, những bài viết
kêu gọi ḥa b́nh của thầy Nhất Hạnh th́ tác phẩm
Hoa sen trong biển lửa (Lotus in the Sea
of Fire) là tiếng kêu mạnh mẽ và thống thiết
nhất. Tác phẩm nầy ra đời vào mùa Xuân năm 1966,
được một nhà Thần học Thiên Chúa giáo nổi tiếng
của Mỹ là Linh mục Thomas Merton viết lời tựa và
Alfred Hassler viết lời bạt. Tác phẩm nầy được
dịch ra nhiều thứ tiếng nhưng bản dịch Việt ngữ
lại bị cấm lưu hành tại Việt Nam thời bấy giờ.
Đối với chính quyền Việt Nam, trước và sau 1975,
thầy Nhất Hạnh vẫn là người đứng bên lề. Nghĩa
là chẳng có một bên nào coi thầy Nhất Hạnh là "người
của ta" cả. Mỗi phía đều có lư do nội tại của nó,
nhưng nh́n một cách khách quan và công bằng th́
cho tới ngày 24-1-2005, ngày phái đoàn Phật giáo
Làng Mai về Việt Nam, th́ thầy Nhất Hạnh, sau
gần 40 năm xa xứ, vẫn giữ được một thái độ độc
lập tương đối với các thế lực tôn giáo cũng như
chính trị trong và ngoài nước.
Nói lên điều nầy, chủ tâm người viết chỉ mong
nói đến "thầy Nhất Hạnh như thầy Nhất Hạnh".
Nghĩa là tránh quan điểm phong thánh hay "tả quỷ"
dễ dăi để tâng bốc quá đà hay miệt thị đầy định
kiến đối với một nhân vật nào đó xuất phát từ sự
chủ quan đầy cảm tính v́ sự ngưỡng mộ hay tâm lư
chống báng nặng cảm tính nhất thời.
Trong mắt nh́n của những người t́m hiểu khách
quan, bản thân và sự nghiệp của thầy Nhất Hạnh
được ghi nhận như sau:
Đứng về mặt tôn giáo, thầy Nhất Hạnh là một nhà
tu; một nhà nghiên cứu Phật học có chiều sâu với
một phương pháp luận kết hợp hài ḥa giữa tính
lô-gích phương Tây và tính trực cảm phương Đông.
Đứng về mặt văn học nghệ thuật, thầy Nhất Hạnh
là một nhà văn, một nhà thơ. Đặc biệt thầy Nhất
Hạnh là một tác giả Việt Nam đầu tiên ở nước
ngoài đă viết cả trăm tác phẩm văn chương và
khảo luận về tôn giáo, xă hội, triết học bằng
tiếng Việt mà trong đó đă có đến vài chục tác
phẩm viết trực tiếp hay được dịch ra bằng tiếng
Anh. Trong số sách bằng tiếng Anh về lĩnh vực
tôn giáo được xuất bản lưu hành khắp thế giới,
có khoảng 10 cuốn sách tiếng Anh của thầy Nhất
Hạnh thuộc vào hàng sách bán chạy (best seller).
Có những cuốn đă phát hành khắp thế giới với
hàng triệu ấn bản.
Để thẩm định giá trị hành động hay tác dụng ư
thức của một nhân vật, một con người th́ điều
cần yếu trước tiên phải có là sự công bằng và
cách nh́n tỉnh táo. Sự tâng bốc hay bài xích cá
nhân mang tính cực đoan, định kiến và bảo thủ sẽ
trở thành mồi lửa rơm bùng lên đốt cháy một cách
nhanh nhất giá trị và sự đáng tin cậy của nhận
định chính nó. Trong chiều hướng đó, thử theo
dơi và ghi nhận những nét nổi bật trong chuyến
đi về thăm Việt Nam của thầy Nhất Hạnh như thế
nào.
Ngày 11 tháng 01 năm 2005, thầy Nhất Hạnh cùng
với tăng thân Làng Mai rời Pháp về Việt Nam
trong một chuyến thăm viếng và truyền pháp kéo
dài 3 tháng (12-01-2005 đến 11-4-2005). Đây
không đơn giản là một cuộc hành hương hay một
chuyến viếng thăm tập thể tuỳ nghi hay tùy thích
của cả hai phía Việt Nam và Làng Mai mà là kết
quả của một sự cân nhắc lợi hại cho cả hai phía.
Một bên là thế lực lănh đạo đương quyền và một
bên là chức sắc tôn giáo. Bởi vậy, ngay bước đầu
tiên khi trả lời phỏng vấn báo chí quốc tế nêu
lên mối quan ngại rằng, nhà cầm quyền Việt Nam
có thể lợi dụng chuyện viếng thăm nầy để tuyên
truyền cho quyền tự do tôn giáo của họ, thầy
Nhất Hạnh đă trả lời rằng: "Có thể (bị lợi
dụng) như thế lắm. Nhưng cách suy nghĩ của tôi
không bị ảnh hưởng bởi các chuyện đó." Trả
lời về sự nghi ngờ thiện chí của phía Việt Nam,
thầy Nhất Hạnh cũng đă nói với báo Time: "Tôi
biết chúng tôi sẽ bị quan sát bởi nhiều người -
đặc biệt bởi công an. Nhưng chúng tôi không bận
tâm bởi chúng tôi tin công an cũng có Phật tánh.
Nếu bạn phát ra niềm vui, yêu thương, cảm thông,
ḥa b́nh và an lạc, họ cũng có thể cảm thụ và
hưởng được lợi ích từ đó." (Time 24-01-05.
“A Long Journey Home” của Kay Johnson)
Nội dung và tinh thần cơ bản của các buổi giảng
pháp, các khóa tu học của thầy Nhất Hạnh và tăng
thân Làng Mai trong suốt 3 tháng du hành khắp cả
ba miền Bắc Trung Nam không có ǵ khác lạ với
tinh thần thiền Làng Mai và sinh hoạt tu học do
Thầy hướng dẫn tại Pháp và các nước ngoài.
Đến đây, tưởng cũng nên dừng lại một chút để
điểm qua khái niệm Thiền học truyền thống Việt
Nam và Thiền Làng Mai của thầy Nhất Hạnh có ǵ
khác biệt...
Thiền Việt Nam và Thiền Làng
Mai
Vài nét về Thiền Việt:
Thiền hay thiền na (Phạn ngữ: Dhyăna; Nhật ngữ:
Zen; Anh ngữ: Meditation) là một tên gọi tương
đối gần gũi với đạo Phật để chỉ một h́nh thức tu
dưỡng tinh thần bằng nhiều phương pháp khác nhau,
nhưng h́nh thức phổ quát nhất vẫn là sự trở về
suy tư và soi rọi chính ḿnh trong tĩnh lặng.
Lịch sử Thiền gắn liền với lịch sử tri thức của
con người. Đây là một h́nh thức tĩnh tâm an
dưỡng được nhiều tôn giáo sử dụng để đạt trạng
thái tỉnh giác nội tại. Nếu tôn giáo là câu trả
lời tạm thời cho những câu hỏi, những thắc mắc
chưa có lời giải đáp dứt khoát của con người th́
Thiền chính là một phương tiện trực tiếp để con
người tự ḿnh đi t́m một cách trả lời tương đối
hợp với căn cơ của chính ḿnh. Bởi vậy, nếu có
bao nhiêu lối nh́n, lối suy tư về cuộc sống th́
có bấy nhiêu khái niệm hay cách định nghĩa "Thiền
là ǵ?"
Qua nhiều chặng đường h́nh thành và phát triển
đời sống tâm linh của con người, h́nh thức tĩnh
tâm - Meditation - đến với các tôn giáo khác như
đạo Chúa, đạo Hồi, đạo Ấn, đạo Do Thái... như
một thí nghiệm đến rồi đi, không ở lâu. Riêng
với đạo Phật th́ h́nh thức tĩnh tâm đó đă gắn
liền và dung hợp với bản chất "tâm không, tự độ"
điển h́nh của đạo Phật. Do đó, thiền tu, thiền
hành, thiền định... đă biến thành một h́nh thức
tu tŕ xương sống của Phật giáo.
Trong đạo Phật, người tập Thiền nhờ định tâm,
định trí mà đạt đến một trạng thái sâu lắng của
tâm thức. Tâm và thức của người hành thiền phải
trải qua nhiều chặng, trong đó ḷng tham dục và
các pháp bất thiện sẽ bị rũ bỏ dần dần nhờ sự
lắng đọng chuyên tâm suy tưởng của hành giả.
Cuối cùng, người hành thiền sẽ đến được trạng
thái tỉnh giác và an lạc.
Thiền phương Đông h́nh thành và phát triển trong
khoảng thế kỷ thứ 6, 7 khi Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ
mang pháp Thiền của đạo Phật sang Trung Hoa. Nhà
Phật học danh tiếng người Đức, H. W. Schumann đă
nhận xét: "Thiền tông có một người cha Ấn Độ
nhưng đă chẳng trở nên trọn vẹn nếu không có
người mẹ Trung Quốc..."
Thiền Trung Hoa là một sự hoà quyện giữa Thiền
tông và Lăo giáo nên từ Sơ Tổ Đạt Ma đến Lục tổ
Huệ Năng (638-713), Thiền Trung Hoa phát triển
sâu rộng trong giới vua quan, quư tộc, học giả,
trí thức mà ít thâm nhập vào quần chúng b́nh dân.
Thiền Việt Nam rất khác với tinh thần Thiền học
Trung Hoa và Nhật Bản v́ Phật giáo Việt Nam là
một nền Phật giáo nhập thế, không tách rời hẳn
với khung cảnh chính trị, văn hoá và xă hội đồng
thời. Tuy vẫn duy tŕ được phần tinh yếu của
nguyên lư "tùy duyên bất biến" trong đạo Phật,
nhưng nhiều thiền sư trong lịch sử như Khuông
Việt, Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Tuệ Trung Thượng Sĩ...
vẫn góp phần xây dựng đất nước một cách tích cực
trong vai tṛ lănh đạo tinh thần và tham vấn
trong công cuộc trị nước an dân.
Trong bối cảnh truyền thừa của Phật giáo Á châu,
chưa đất nước nào mà khái niệm Phật giáo Tiểu
thừa và Đại thừa lại có sự gắn kết và hỗ tương
hài hoà trong công cuộc hoằng pháp độ sanh trong
suốt cả chiều dài lịch sử như Phật giáo Việt
Nam.
Đại thừa nhập thế, nhưng vẫn thường xuyên đi và
về để tiếp cận với ḍng suối trong mát đầu nguồn
của tinh thần Tiểu thừa, nguyên thủy. Có thể nói
bước tiến xă hội hóa và Việt Nam hóa Thiền học
là một quá tŕnh phát triển độc lập, độc đáo
đáng tự hào đời sống tâm linh của tinh thần Phật
giáo Việt Nam.
Đạo Phật truyền vào Việt Nam khoảng đầu kỷ
nguyên Tây lịch và Thiền học Việt Nam khởi đầu
bằng Khương Tăng Hội vào đầu thế kỷ thứ III.
Theo ḍng sử Việt, Phật giáo đă có mặt suốt 20
thế kỷ trong ḍng sinh mệnh Việt Nam tính từ
thời Tiền và Hậu Lư Nam Đế (542- 603) mở đầu nền
tự chủ cho nước nhà; đến nhà Đinh (968-980) và
Tiền Lê (980-1009), đạo Phật được triều đ́nh coi
là tôn giáo của cả nước; sang nhà Lư (1010-1225)
và tiếp theo nhà Trần (1225-1400), đạo Phật lại
càng được phát triển mạnh trong đời sống xă hội.
Bên cạnh những giai đoạn cực thịnh, đạo Phật
cũng trải qua những giai đoạn khó khăn và suy
yếu, những thời kỳ Pháp nạn. Pháp nạn do tác
động của hoàn cảnh chính trị, lịch sử, xă hội
bên ngoài và pháp nạn do sự phân hóa bên trong.
Vài nét về Làng Mai và "Thiền Làng Mai"
Ngay khi có tin thầy Nhất Hạnh và phái đoàn tăng
thân Làng Mai về thăm viếng và mở những buổi
pháp thuyết và pháp đàm tu học tại Việt Nam,
giới Phật tử tại quê nhà cũng như khắp năm châu
phản ứng lạc quan cũng nhiều mà bi quan cũng lắm.
Giới lạc quan th́ cho rằng, thầy Nhất Hạnh sẽ là
một thiện duyên để góp phần khơi ḍng nguồn suối
sức mạnh hóa giải vốn tiềm tàng từ bên trong nội
bộ Phật giáo. Từ đó, Phật tử xuất gia cũng như
tại gia có thể tùy duyên phân thân h́nh thức
nhưng tinh thần th́ vẫn ḥa hợp. Giới bi quan
th́ cho rằng, sự về thăm quê hương của thầy Nhất
Hạnh chỉ có lợi cho thế quyền chứ chẳng mang lại
lợi ích ǵ cho Phật giáo. Sự hoài nghi không
vọng động là một biểu hiện ư thức lành mạnh tạo
sự quân b́nh cho ḍng tri thức của xă hội có
điều kiện tiến hóa. Ngược lại, chỉ có sự cực
đoan và cuồng tín - tiêu biểu là sự khen hoặc
chê quá đà và vội vă, thậm chí đôi khi thô thiển
trong ngôn từ và thô bạo trong luân điểm - mới
tàn phá và chận đứng ḍng tiến hóa cần thiết của
tri thức mà thôi.
Trong khi sinh hoạt của thầy Nhất Hạnh bị "cấm
vận" trong nước từ trước 1975 th́ thầy đă kiên
tŕ t́m một hướng đi riêng từ bên ngoài đất nước.
Một hướng đi mà nhân loại đang cần và trong hoàn
cảnh nào cũng được tôn vinh, đó là con đường của
t́nh thương và tinh thần đấu tranh cho lẽ phải
để hóa giải hận thù bằng phương pháp không bạo
động. Mahatman Gandhi, Martin Luther King, Đạt
Lai Lạt Ma, Desmond Tutu... là những nhà tranh
đấu đ̣i tự do và quyền làm người cho khối người
bị áp bức bằng phương tiện bất bạo động mà nhân
loại, không phân biệt mầu da hay chủng tộc, hằng
ngưỡng mộ. Thầy Nhất Hạnh đă theo con đường của
những nhà đấu tranh bất bạo động đi trước bằng
môt tinh thần uyển chuyển và sáng tạo rất Đông
phương, đặt căn bản trên tinh thần cốt tủy từ
bi, trí tuệ của Phật giáo. Làng Mai được thành
lập trong tinh thần tu dưỡng và khai sáng đó.
Làng Mai là một trung tâm thiền tập tọa lạc tại
miền Tây Nam nước Pháp được h́nh thành vào đầu
năm 1982.
Những năm đầu, nhiều cây hồng ăn trái (persimon)
đă được trồng lên cho nên trung tâm thiền tập
này được gọi là Làng Hồng. Nhưng sau đó, 1250
cây mai thuộc loại pruniers d'Agen, rất ngọt và
đậm đà, đă được trồng bằng tiền túi của thiếu
nhi gốc Việt Nam về tu học, cho nên Làng Hồng đă
đổi tên thành Làng Mai - tiếng Pháp là Village
des pruniers, tiếng Anh là Plum Tree Village,
gọi tắt là Plum Village. Tên chữ của Làng là Đạo
Tràng Mai Thôn.
Mấy năm đầu th́ Làng Mai chỉ có hai xóm: Xóm
Thượng và Xóm Hạ. Nhưng v́ nhu cầu càng ngày
càng lớn của thiền sinh, Làng Mai mở thêm các
xóm như: Xóm Thượng, Xóm Hạ, Xóm Trung, Xóm Đoài
và Xóm Mới. Xóm Thượng đă trở thành chùa Pháp
Vân, tên chữ là Thệ Nhật Sơn Pháp Vân Tự. Xóm Hạ
đă trở thành chùa Cam Lộ, tên chữ là Mai Hoa
Thôn Cam Lộ Tự. Xóm Mới đă trở thành chùa Từ
Nghiêm, tên chữ là Thiên Ư Thôn Từ Nghiêm Tự.
Xóm Mới có thêm Xóm Mới Đầu Thôn và Xóm Mới Lưng
Đồi để đủ cung ứng nơi cư trú cho thiền sinh tới
thực tập càng lúc càng đông. Ngoài ra, Xóm Mới
cũng mới có thêm một ngọn đồi và một con suối
gọi là Đồi Dương Xuân và Suối Dương Xuân, một
niềm vui lớn cho các vị thường trú. Chùa Pháp
Vân là thiền viện của các vị xuất gia nam, chùa
Từ Nghiêm là thiền viện của các vị xuất gia nữ.
Trong số các thầy và các sư cô, có nhiều vị gốc
Anh, gốc Pháp, gốc Ḥa Lan, gốc Mỹ, gốc Ái Nhĩ
Lan, Úc... Làng Mai cũng là trú sở của Viện Cao
đẳng Phật học, nơi đào tạo các vị giáo thọ xuất
gia và tại gia. Tại Đạo Tràng Mai Thôn, ngoài
chúng xuất gia, cũng có chúng tại gia thường trú,
tu học rất tinh chuyên.
Mỗi năm Đạo Tràng Mai Thôn tổ chức những khóa tu
mùa Hè, mùa Thu, mùa Đông, v.v... Số thiền sinh
về tham dự hàng năm có thể lên tới nhiều ngàn
người. Đa số là người ngoại quốc, tới từ khoảng
ba mươi quốc gia. Đạo Tràng Mai Thôn đă trở nên
một thiền viện quốc tế. Tại Làng Mai, thầy Nhất
Hạnh đích thân giảng dạy và hướng dẫn các khóa
tu học cùng với sự phụ tá của gần hai chục vị
giáo thọ thường trú, phần lớn là giới xuất gia
(Theo Làng Mai Website).
Với sự ra đời của Làng Mai, thầy Nhất Hạnh đă
tiếp nối phát huy tinh thần đại chúng hóa của
Phật giáo Việt Nam, đưa tinh hoa của Thiền tông
và Tịnh độ đến gần với mọi người không phân biệt
chủng tộc hay hoàn cảnh xuất thân.
Đối với xă hội Âu Mỹ, đời sống đua chen vật chất
và ṿng quay quá nhanh của cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật đă làm cho tinh thần cũng như thể
chất con người thường xuyên lắc lư theo đà quán
tính của cuộc sống hàng ngày. Sự ra đời của máy
vi tính, điện thọai cầm tay và phương tiện
truyền thông tinh vi, nhanh như ánh sáng khiến
cho con người mất chỗ trú ẩn. Con người bị đào
bới tận gốc rễ từ trong nếp suy tư, giữa ư thức
và vô thức. Cả vũ trụ vật lư nầy đều bị đào xới
và ô nhiễm. Núi, rừng, sông, biển... cùng lắm
th́ cũng chỉ là chỗ trú thân và trú chân chứ
không thể nào là chỗ an trú của tinh thần. Thiền
bỗng trở thành một giải pháp. Đa số, người Âu Mỹ
ngồi Thiền không phải để t́m sự giải thoát thành
Phật mà để thành Người, một con ngườn an lạc, đỡ
bị bức xúc hay căng thẳng. Thế thôi.
Bên cạnh Thiền Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Hoa, Tây
Tạng, Đài Loan, Đại Hàn... th́ Thiền học Việt
Nam theo mô thức Làng Mai (cũng gọi là Thiền
Làng Mai) cũng được hàng ngàn, hàng vạn người Âu
Mỹ quan tâm t́m hiểu và theo học. Trong hiện
trạng sinh hoạt văn hóa và tâm linh tại các nước
Âu Mỹ, phải khách quan để thấy rằng, thầy Nhất
Hạnh là một trong những hiện tượng hiếm hoi về
sự thành công của một nhà sư Phật giáo Việt Nam
trong cộng đồng thế giới. Ttrong gần 40 năm qua,
thầy Nhất Hạnh đă liên tục mở những khóa tu học
cho cả Việt Nam và người nước ngoài.
Đặc biệt tại Mỹ, những buổi nói chuyện về các đề
tài Thiền học và cách ứng xử với cuộc sống hàng
ngày trước mắt bằng tinh thần Thiền học do thầy
Nhất Hạnh thuyết giảng và hướng dẫn tại nhiều
nơi trên đất Mỹ thường thu hút đông đảo người
nghe. Những hội trường rộng mênh mông không c̣n
chỗ trống. Nét đặc trưng của các khóa tu học hay
thuyết giảng về Thiền của thầy Nhất Hạnh là tính
chất đơn giản và thực dụng, rất hợp với căn cơ
của người Mỹ và người Việt trong xă hội công
nghiệp Âu Mỹ. Thính chúng không cần phải có một
căn bản giáo lư hay một quá tŕnh tu học vẫn
theo dơi và hiểu được.
Từ một cơ sở lư thuyết cao siêu, trừu tượng và
đặt trọng tâm vào tự lực tự chứng của Thiền học,
thầy Nhất Hạnh đă đưa ra những phép tu, phương
pháp thực hành và lề lối suy niệm rất đơn giản
vào đại chúng.
Sau đây thử ghi lại một trong năm bài tập thiền
tập có hướng dẫn rất dễ làm theo phương pháp của
thầy Nhất Hạnh. Ai cũng có thể tập thử để thấy
tính chất thực tiễn của thiền. Bốn bài đầu có
tác dụng nuôi dưỡng. Bài thứ năm có tác dụng trị
liệu, tất cả được trích trong sách Sen búp
từng cánh hé.
Bài tập thứ nhất:
Thở vào, tâm tĩnh lặng. Thở ra, miệng mỉm cười.
Tĩnh lặng. Mỉm cười.
Thở vào, an trú trong hiện tại. Thở ra, giây
phút đẹp tuyệt vời. Hiện tại. Tuyệt vời.
Nhiều người bắt đầu thực tập thiền bằng bài tập
này. Có nhiều người dù đă thực tập bài tập này
trong nhiều năm vẫn c̣n tiếp tục thực tập, bởi
v́ nó tiếp tục đem tới nhiều lợi lạc cho hành
giả.
Thở vào, ta chú tâm tới hơi thở: Hơi thở vào tới
đâu ta cảm thấy tĩnh lặng tới đó, giống như khi
ta uống nước mát; nước đi tới đâu th́ ruột gan
ta mát tới đó. Trong thiền tập, hễ tâm tĩnh lặng
th́ thân cũng tĩnh lặng, bởi v́ hơi thở có ư
thức đem thân và tâm về một mối. Khi thở ra ta
mỉm cười, để thư giăn tất cả các bắp thịt trên
mặt (có khoảng 300 bắp thịt trên mặt ta). Thần
kinh ta cũng được thư giăn khi ta mỉm cười. Nụ
cười vừa là kết quả của sự tĩnh lặng do hơi thở
vào đem lại, mà cũng vừa là nguyên nhân giúp ta
trở nên thư thái và cảm thấy sự an lạc phát hiện
rơ ràng thêm. Hơi thở thứ hai đem ta về giây
phút hiện tại, cắt đứt mọi ràng buộc với quá khứ
và mọi lo lắng về tương lai, để ta có thể an trú
trong giây phút hiện tại. Sự sống chỉ mặt trong
giây phút hiện tại, v́ vậy ta phải trở về giây
phút ấy để tiếp xúc với sự sống. Hơi thở này
giúp ta trở về sự sống chân thật. Biết ḿnh đang
sống và biết ḿnh có thể tiếp xúc với tất cả mọi
mầu nhiệm của sự sống trong ta và xung quanh ta,
đó là một phép lạ. Chỉ cần mở mắt hoặc lắng nghe
là ta tiếp nhận được những mầu nhiệm của sự sống.
V́ vậy cho nên giây phút hiện tại có thể là giây
phút đẹp nhất và tuyệt vời nhất, nếu ta thực tập
sống tỉnh thức bằng hơi thở. Ta có thể thực tập
hơi thở thứ nhất nhiều lần trước khi đi sang hơi
thở thứ hai. Bài này có thể thực tập bất cứ ở
đâu: trong thiền đường, trên xe lửa, trong nhà
bếp, ngoài bờ sông, trong công viên, trong các
tư thế đi, đứng, nằm, ngồi và ngay cả lúc đang
làm việc (Theo Website Làng Mai)...
Phật giáo Việt Nam hôm nay
Lịch sử đạo Phật đă chứng minh rằng, pháp nạn do
tác động của hoàn cảnh và thế lực khách quan,
cho dù bạo liệt đến đâu, cũng dễ t́m ra phương
thức giải trừ. Nhưng pháp nạn do tác động nội
tại "sư tử trùng thực sư tử nhục" sẽ tạo nên một
sự khủng hoảng thật xót xa:
Môi hở th́ lạnh tới răng.
Trùng trong sư tử tự ăn thịt ḿnh.
Sự bất đồng nội bộ thường là nguyên nhân của sự
phân hóa có khi vô phương hóa giải nếu không có
một nguồn suối sức mạnh dấy lên và tỏa chiết từ
bên trong.
Hiện trạng Phật giáo Việt Nam trong những năm
qua - ít nhất nữa th́ cũng về mặt h́nh thức và
tổ chức - đang đứng giữa (theo khuynh hướng bi
quan) hay đang đứng bên bờ (khuynh hướng lạc
quan) của pháp nạn. Pháp nạn Phật giáo Việt Nam
hiện nay là tứ chúng chưa có điều kiện đồng tu
và tăng già chưa có điều kiện ḥa hợp. Hai
khuynh hướng chư tăng thân chính quyền và chống
chính quyền đang đóng cửa nh́n nhau, chưa t́m ra
một mảnh đất chung, khách quan hợp lư để hóa
giải những khác biệt cơ bản của nguyên nhân phân
hóa. Tứ chúng, như một "phản ứng có điều kiện"
tất nhiên, là theo khuynh hướng thầy tổ của ḿnh.
Vô h́nh chung, quần chúng Phật tử tự động phân
hóa theo "phía bên nầy hay phía bên kia." Sự
phân hóa khi âm thầm, khi hiển lộ đă kéo dài hơn
20 năm.
Phật giáo Việt Nam trong cũng như ngoài nước
đang lâm vào cảnh phân hóa. Sự thay đổi về chính
trị và thế quyền luôn luôn có tác dụng trực tiếp
hoặc gián tiếp đến sự sinh họat tôn giáo và giáo
quyền. Phật giáo trong nước chia làm hai khối:
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN)
thành lập từ năm 1964 và Giáo hội Phật giáo Việt
Nam (GHPGVN) thành lập từ năm 1982, hay c̣n gọi
là Giáo hội Phật giáo Nhà nước, Phật giáo thuộc
Mặt trận Tổ quốc (Cũng có người gọi là "Phật
giáo quốc goanh" nhưng cách gọi nầy là không
đúng, đơn giản v́ tôn giáo không phải là một
thành tố kinh tế mà là một thực thể nhân văn
trong một đất nước.)
Về mặt cấu trúc, hệ thống thế quyền nhà nước
Việt Nam đương đại có 3 cơ chế là: Đảng Cộng sản,
Chính quyền và Mặt trận Tổ quốc. Hệ thống giáo
quyền Phật giáo có 3 cơ sở: Phật, Pháp, Tăng gọi
là Tam Bảo. Nhà nước Việt Nam đ̣i hỏi tất cả các
đoàn thể quần chúng và tôn giáo trong nước đều
phải là thành viên của Mặt trận Tổ quốc. Nghĩa
là các tổ chức tăng đoàn Phật giáo cũng giống
như tất cả các đoàn thể quần chúng khác, phải
nằm trong Mặt trận Tổ quốc. Quư thầy và sư cô
trong hệ thống Giáo hội Phật giáo đ̣i hỏi Giáo
hội và Tăng đoàn phải được tổ chức và sinh hoạt
độc lập, đứng ra ngoài Mặt trận Tổ quốc. Đấy
chính là nguyên nhân trực tiếp của sự phân chia
Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành hai khối khi
các Thầy và Sư cô chọn lựa một trong hai thái độ
làm phương tiện tu tŕ. Hoặc là nhất thiết phải
đ̣i hỏi cho được thế độc lập của Giáo hội Phật
giáo Việt Nam đứng ngoài cơ chế chính quyền,
hoặc là chấp nhận một cơ chế chung áp dụng cho
mọi tôn giáo và đoàn thể trong nước. Quư Thầy và
Sư cô chọn thái độ độc lập với nhà cầm quyền
Việt Nam đứng vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống nhất, quư Thầy và Sư cô chọn thái độ thứ
hai mặc nhiên đứng vào Giáo hội Phật giáo Việt
Nam.
Trên thực tế th́ hầu hết quư Tăng ni và Phật tử
chọn một thái độ tu hành thầm lặng. Một sự thầm
lặng tích cực trong tinh thần "tùy duyên bất
biến" của Phật giáo, xả bỏ những hệ lụy nhân
sinh và chính trị để an tịnh tiến bước trên
đường Đạo. Như trong thư của thầy Thích Viên
Định (GHPGVNTN) gửi thầy Thích Nhất Hạnh đề ngày
19-01-05 cũng đă xác định khuynh hướng nầy: "Như
chư tăng ở Già Lam - G̣ Vấp, hơn 70, 80 vị, cùng
ở chung, cùng ăn chung, cùng tụng kinh, bố tát
chung, cùng hoà hợp, nhưng trong đó có vị theo
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, có vị
theo Giáo hội Phật giáo Việt Nam của Mặt-trận,
có sao đâu. Chùa Giác Hoa ở B́nh Thạnh cũng vậy,
trên 40 tăng chúng cùng tu học, có vị này vị
khác chứ có theo Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống nhất hết đâu, nhưng vẫn hoà hợp bố tát, có
chia rẽ ǵ đâu."
Trong lĩnh vực tôn giáo và tâm linh, sự phân hóa
không đồng nghĩa với vết cắt h́nh tướng vật lư.
Khi một vết cắt đă có, nếu nó không hiện diện
bên ngoài th́ nó sẽ lắng vào bề sâu. Người theo
đạo Phật nói chung, sau những biến cố của đất
nước và đạo pháp, nhất là trong thời buổi mà các
phương tiện truyền thông đại chúng quá nhanh
chóng và tinh xảo nầy, không ai c̣n dễ dăi "giao
khoán" đức tin Tam Bảo của ḿnh vào tay bất cứ
một thế lực nào. Ngoại trừ những nhóm mưu cầu
đặc quyền đặc lợi (interest groups) từ tôn giáo,
Phật tử Việt Nam đều cung kính đảnh lễ chư Tăng,
Ni đạo cao, đức trọng. Đạo đức Phật giáo đích
thực không chấp tướng, chấp tánh; không căn cứ
vào thành quả thế tục đầy giả tướng và phi Phật
giáo như chùa to, chức lớn, thế lực, danh vị tôn
xưng, đông người bảo hộ để đánh giá sai lầm về
một đối tượng nào cả, nhất là đối tượng thuộc
hàng cao tăng thạc đức trong hàng ngũ lănh đạo
Phật giáo.
Sự tương tranh và phân hóa trong cuộc đời thường
đă quá sức chịu đựng của người Phật tử nên họ
t́m đến Đạo như một chỗ dựa tinh thần. Họ là
những ḍng sông mệt mỏi v́ đă trải qua nhiều
sóng gió, giờ muốn t́m về với biển khơi an lạc
thái hoà. Cuộc đời mỗi người quá ngắn và sự kiên
nhẫn của mỗi người đều có giới hạn để họ có đủ
nhiệt t́nh đối diện với một "Pháp Nạn tự thân"
ngay trên con đường học Đạo.
Phật tử trong nước cũng như ngoài nước đă trực
hay gián tiếp biểu tỏ 3 thái độ: (1) Theo Giáo
hội Phật giáo Thống nhất, (2) theo Giáo hội Phật
giáo Việt Nam, hoặc (3) bên nào cũng theo hay
không theo bên nào cả mà tự lập nhóm chuyên tu
hay cá nhân tu hành độc lập tại gia.. Nếu không
có một người dân nào muốn làm dân một non sông
hận thù và chia cắt th́ cũng chẳng có một người
Phật tử nào lại muốn quư Tăng Ni trong hàng giáo
phẩm quay lưng lại với nhau.
Cư sĩ Nguyên Trung trong bài viết: "Tâm lư
tiểu xảo và tinh thần hóa giải của Phật giáo
Việt Nam", đăng ở tạp chí Thiện Hữu 19, viết:
"Trong suốt 20 năm qua, Phật giáo Việt Nam như
một đại gia đ́nh với hai tuyến nhân vật khác
nhau. Những thành viên trong gia đ́nh tránh mặt
nhau hay vạn bất đắc dĩ phải gặp gỡ nhau một
cách gượng ép. Đạo Phật vẫn phát triển và sinh
hoạt theo ḍng sinh mệnh của dân tộc và con
người. Song, người ta vẫn tự hỏi rằng, từ trong
căn cơ và bản chất, đạo Phật là đạo Hóa Giải.
Tinh hoa của tinh thần hóa giải đó đă vượt thắng
những chặng đường pháp nạn gian lao nhất trong
suốt 2500 năm qua. Tại sao 20 năm qua sự phân
cách vẫn cứ c̣n giữ nguyên ranh giới? Chờ đợi
một hoàn cảnh thuận lợi, một chế độ chính trị
thích hợp, một quyền lực từ bên ng̣ai để "hoá
giải" cho Phật giáo Việt Nam hay Phật giáo Việt
Nam có đủ năng lực nội tại để hóa giải BIỂN LỬA
GIỮA HOA SEN trong bất cứ t́nh huống và hoàn
cảnh nào?"
Câu hỏi tự nó không đợi một câu trả lời mà cần
một sự trầm tư suy nghĩ...
MỘT GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM HỢP NHẤT vẫn là
khát vọng chính đáng của tất cả hàng Phật tử
xuất gia cũng như tại gia.
Thầy Nhất Hạnh và chuyến viếng thăm Việt Nam
Giữa ḍng suy tư và trong một hoàn cảnh phân hóa
vừa tŕnh bày ở trên, thầy Nhất Hạnh đă hướng
dẫn 190 Tăng thân Làng Mai (quy tụ từ 30 quốc
gia khác nhau) từ Pháp về Việt Nam trong một
chuyến viếng thăm 3 tháng vừa mang tính chất
hành hương, vừa mang tính chất thuyết giảng và
tu học, vừa mang tính chất thăm viếng.
Người ta sẽ rất ngạc nhiên nếu không có phản ứng
nào từ phía quần chúng trong cũng như ngoài nước
về chuyến viếng thăm nầy. Và, người ta sẽ ngạc
nhiên nhiều hơn nếu chỉ có một phản ứng xuôi
chiều, nghĩa là chỉ có ủng hộ hay chống đối.
Người ở trong cũng như người ở ngoài đạo Phật
hằng quan tâm đến sinh họat văn hóa và xă hội
đều muốn biết và muốn nghe diễn tiến và tác dụng
của chuyến đi nầy một cách khách quan và trung
thực. Tôn giáo, tự bản chất, là một hiện thể ra
đời để làm giảm bớt sự thống khổ về tinh thần
của nhân loại. Thế giới nầy lại là một hợp thể
từ đơn giản đến phức tạp; từ thấp đến cao. V́
vậy, con đường của tôn giáo là con đường trung
đạo. Sự cực đoan trong tôn giáo sẽ đi ngược lại
tinh thần tôn giáo. Thay v́ tôn giáo ra đời để
hóa giải những tranh chấp, hận thù và đau khổ,
th́ chính sự cực đoan sẽ làm cho tôn giáo vong
thân, cùng gieo rắc hận thù và đau khổ.
Sự cực đoan trong môi trường truyền thông qua
h́nh thức ca tụng quá đà hay lời lẽ đả kích thô
bạo trong thông tin và b́nh luận về tôn giáo
chẳng những không mang lại một ư nghĩa lợi ích
nào cho ai mà chỉ tự trở thành chướng ngại đối
với đa số quần chúng thầm lặng theo dơi. Điều
nầy cũng đây đó xẩy ra một cách đáng tiếc trong
chuyến về thăm Việt Nam của thầy Nhất Hạnh.
Mỗi cá nhân hay nhóm phái đều có một góc nh́n
riêng. Nói như thiền sư Viên Minh: "Cũng chỉ là
một ḍng nước mà con cá th́ thấy đó là lẽ sống,
ngạ quỷ thấy đó là máu mủ tanh hôi, người thấy
đó là ḍng nước mát, bậc thiên nhân thấy đó là
huyết mạch của đất trời... và đến cái nh́n tánh
không của Phật giáo th́ thấy đó chỉ là Không!"
Trước một đối tượng, mỗi phía nh́n một cách
không những hoàn toàn khác nhau mà có khi c̣n
đối chọi lẫn nhau từ hiện tượng đến bản chất.
Cũng chỉ là vấn đề thầy Nhất Hạnh và tăng thân
Làng Mai về Việt Nam, nhưng có vô số cách nh́n
và tầm nh́n riêng biệt. Điển h́nh nhất là các
khuynh hướng:
Người quan tâm đến lễ nghi,
quan cách th́ nhắc đến h́nh ảnh Phật tử cờ quạt
đưa đón sắp hàng dài cả cây số và đợi chờ từ khi
trời chưa sáng để đón thầy Nhất Hạnh.
Người thích chuyện Vơ hiệp
kiểu quần hùng Thiếu Lâm tự th́ chú tâm đến
chuyện thầy Nhất Hạnh gơ cửa đứng chờ mà các
thầy Tuệ Sỹ, Huyền Quang, Quảng Độ không mở.
Người ưa chuyện "Đồ tể quăng
dao thành Phật" th́ kể chuyện những đại lễ quy y
tập thể của Phật tử thuộc nhiều thành phần xă
hội với thầy Nhất Hạnh.
Người chuộng việc tham thiền
th́ nhắc nhở thiền Làng Mai: “Thở vào tâm rỗng
lặng, thở ra miệng mỉm cười..." trong các khoá
tu học của thầy Nhất Hạnh.
Người mến đạo Phật th́ cho
thầy Nhất Hạnh đă làm được việc lớn là ḥa hợp
được hai khối tu sĩ thuộc cả hai Giáo hội Phật
giáo Thống nhất và Việt Nam ở các chùa Từ Đàm,
Từ Hiếu, Linh Mụ, Linh Quang... vốn dĩ đă không
hoà hợp suốt 20 năm nay, lần đầu cùng ngồi lại
bố tát (sinh hoạt tu học thường kỳ của giới tu
sĩ) với nhau và ra thông cáo chung sẽ ḥa hợp bố
tát lâu dài.
Người đeo nặng căn cơ dục
tính th́ cứ đem thầy Nhất Hạnh với sư cô Chân
Không làm đối tượng vu vạ, gán ghép theo tầm
nh́n và cảm quan phù hợp với nhăn quan tính dục
riêng ḿnh.
Người có khuynh hướng chính
trị cực hữu th́ suy đoán rằng, thầy Nhất Hạnh về
nước là theo khuynh hướng thân cộng, làm lợi cho
phía nhà cầm quyền Việt Nam.
Và người thích đội nón quai...
da, quyết đoán giản đơn th́ đồng hóa luôn thầy
Nhất Hạnh là cộng sản cho nó... khớp với lập
trường quan điểm đă dấy lên và xẹp xuống từ
1963!
Đối với khối người thầm lặng,
tỉnh táo theo dơi t́nh h́nh, người ta không ngạc
nhiên về sự khen chê, đả kích nhưng lại ngạc
nhiên và thất vọng về sự đơn giản đến độ nghèo
nàn, thấp kém của chiến thuật và nội dung đả
kích. Khai thác dữ kiện làm căn bản cho sự chống
báng một nhà sư với tầm vóc như thầy Nhất Hạnh
mà người ta chỉ có thể đưa ra những "chứng lư" ở
tŕnh độ ngồi lê đôi mách, thiên hạ đồn rằng
trong các con hẻm Việt Nam... th́ quả là đáng
ngạc nhiên. Đối với những người sính chữ nghĩa,
luận đàm th́ bị thất vọng v́ không ngờ thực lực
phản công của phe chống thầy Nhất Hạnh ở hải
ngoại lại "mỏng" và "vị thành niên"
(adolescence: chữ của Kant) đến như vậy!
Thất vọng và hy vọng
Sau ba tháng thăm viếng, lắng nghe, thuyết giảng
không ngừng nghỉ... phái đoàn thầy Nhất Hạnh và
tăng thân Làng Mai đă đưa ra một thông điệp nhất
quán và xác tín, rằng là: Chỉ có Tấm ḷng, T́nh
thương và Trí tuệ mới đủ sức hóa giải những hiểu
lầm, nghi kỵ, phân hóa, đổ vỡ... do con người
gây ra và con người hứng chịu. Cuối chuyến đi,
thầy Nhất Hạnh đă đưa ra những đề nghị: Sáu điểm
về sự cởi mở của Đảng Cộng sản Việt Nam và Bảy
điểm về chính sách của nhà nước Việt Nam đới với
Phật giáo. Giới quan sát khách quan cho rằng đấy
là những đề nghị thiết thực và khả thi.
Trước khi về Việt Nam, từ năm 1998, thầy Nhất
Hạnh và Đạo Tràng Mai Thôn chính thức được mời
thuyết giảng tại Trung Quốc. Năm 2000, Trung
Quốc Phật giáo Hiệp hội đă gửi một phái đoàn đại
diện tất cả 48 tỉnh hội Phật giáo Trung Hoa lục
địa do ông Dương Đồng Tường, thứ trưởng và vụ
trưởng Quốc gia Tôn giáo Vụ, hướng dẫn qua thăm
Đạo Tràng Làng Mai. Sau đó là những cuộc thăm
viếng và thuyết giảng ch́nh thức của phái đoàn
thầy Nhất Hạnh tại Đại Hàn. Măi đến năm 2004,
sau gần một năm thương thuyết gay go giữa chính
quyền Việt Nam với đại diện Đạo Tràng Làng Mai,
thầy Nhất Hạnh và phái đoàn tăng thân Làng Mai
mới được chấp thuận về thăm Việt Nam. Đây không
phải là một cuộc "thăm chui" để làm lợi cho một
thế lực nào đó như nhiều "tin chui" đă loan báo.
Đây là kết quả một cuộc vận động khởi xướng từ
Âu, Mỹ. Tại Pháp có Thượng Nghị sĩ Jean-Francois
Poncet, Bernard Dussaut và Philippe Marini lên
tiếng. Tại Thụy Sĩ, Tổng thống Liên bang Thụy Sĩ
Flavio Cotti cũng đă viết thư trực tiếp cho
chính phủ Việt Nam ngày 11-9-1998. Tại Mỹ Thượng
Nghị sĩ John Mc Cain cũng đă viết cho Thủ tướng
Việt Nam ngày 24-3-1998. Ông Frederick Mayors,
giám đốc UNESCO cũng đă viết thư gửi đến chính
quyền Việt Nam ngày 9-4-1999. Phương tiện và
cường độ ngôn ngữ của mỗi nhân vật ngoại giao
một khác, nhưng tựu trung đều có chung tiếng nói
là họ đă biết rơ thầy Nhất Hạnh là ai và khuynh
hướng tu học theo khuynh hướng Làng Mai như thế
nào, để từ đó vận động kêu gọi phía chính quyền
Viêït Nam chấp nhận cho thầy Nhất Hạnh và phái
đoàn Làng Mai về Việt Nam.
Nêu lên những dữ kiện kiểm chứng được trên đây,
tôi không nhắm mục đích phê phán hay biện minh
cho ai cả. Đây không phải là hành trạng mang
tính "thâm cung bí sử" của một nhà tu thường
thấy trong các tuồng tích. Đây là một thực tế rơ
ràng mà mọi người đều có thể nh́n thấy, theo dơi
và kiểm chứng được, nếu cần. Chuyến đi về nước
của thầy Nhất Hạnh là cả một câu chuyện dài với
nhiều t́nh tiết. Có nhiều t́nh tiết là câu hỏi
mà phải cần thời gian mới thấy được đáp án.
Những đáp án trong đạo Phật vượt ra ngoài tầm
nh́n hạn hẹp của các khẩu hiệu chính trị nhất
thời và sự suy diễn tùy tiện một chiều.
Sau 30 năm cuộc chiến Mỹ / Việt chấm dứt, hơn
một nửa tổng dân số 84 triệu người Việt Nam
trong và ngoài nước ra đời từ sau năm 1975. Thế
hệ tiền chiến Mỹ / Việt chỉ c̣n là vang bóng.
Thế hệ chiến tranh Mỹ / Việt đang lụi tàn dần
theo ngày tháng và thế hệ trẻ, thế hệ đàn em,
thế hệ hậu chiến Mỹ / Việt đang từng bước thay
cho thế hệ đàn anh lên cầm vận mệnh của đất nước.
"Tre tàn măng mọc" là quy luật nhân sinh tất yếu
và khách quan. Thế giới đang bước vào thế kỷ 21
với tốc độ siêu đẳng để đưa quần thể loài người
gần lại với nhau như một "làng địa cầu" mà có
thể xóm Đông là Việt Nam và xóm Tây là Mỹ quốc.
Cùng với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật nói
chung, trong lĩnh vực truyền thông, tin học, tốc
độ nháy mắt và khối lượng khổng lồ của mạng lưới
thông tin liên lạc đă tác động tận gốc rễ của
đời sống tri thức. Những huyền thoại một thời
đang nhường bước cho hiện thực và dữ kiện. Tri
thức con người không c̣n dễ bị thuyết phục bằng
niềm tin thuần túy không cần kiểm chứng như thời
quá khứ.
Trong lĩnh vực tôn giáo và thần học, nhân loại
đang bước qua bóng tối của sự khải huyền (mythologization)
để bước vào ngưỡng cửa "giải huyền"
(demythologization) của thế kỷ 21 nhằm đánh tan
những huyền thoại, phá bỏ bức màn u tối của t́nh
trạng vô minh để khai sáng. Người Việt Nam trong
cũng như ngoài nước, đặc biệt là thế hệ trẻ, cần
phải được hưởng những tiện ích thời đại cơ bản,
phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh riêng. Sự
giao lưu quốc tế về các lĩnh vực văn hóa, giáo
dục, thể thao, nghệ thuật, tôn giáo... không c̣n
là "xa xỉ phẩm" mà đang trở thành những nhu cầu
thiết thân của đời sống. Sự chọn lựa tin hay
không tin vào một hệ thống tín lư hay triết lư
tôn giáo là quyền cá nhân. Tuy nhiên, dẫu tin
hay không tin; theo hay không theo một tôn giáo
hay một hệ thống triết lư nào đó th́ việc trang
bị một kiến thức phổ thông về tôn giáo, triết lư
nói chung vẫn là quyền lợi chính đáng cần phải
được tôn trọng.
Theo thống kê mới nhất của cơ quan Truyền thông
Phật giáo Á Châu (Asian Buddhist Information.
December, 2004. Volume VI- 2A) th́ 95 phần trăm
tuổi trẻ thế hệ từ 15 đến 30 tuổi tại Trung Hoa,
Việt Nam, Đại Hàn hoàn toàn không quan tâm hay
thiếu sự hiểu biết căn bản về Phật giáo. Thống
kê này c̣n cho biết là tỷ số giới trẻ "mù tịt
tôn giáo" thấp hơn đối với các hệ thống tôn giáo
có tổ chức sinh hoạt chặt chẽ như Thiên Chúa
giáo, Tin Lành... Trước một thực trạng như thế,
sự hiện diện của thầy Nhất Hạnh và Tăng Thân
Làng Mai là một sự dấn thân tiếp cận tích cực để
góp phần tạo điều kiện và phương tiện thuận lợi
cho sự giới thiệu một h́nh thái sinh hoạt Phật
giáo đặc biệt của Đạo Tràng Làng Mai.
Nếu có chăng sự hoài nghi và thất vọng khởi lên
từ phía nầy hay phía khác th́ đấy cũng là những
phản ứng tâm lư thông thường và dễ hiểu trong
một hoàn cảnh tế nhị như hiện nay. Thế nhưng
niềm hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn cho
Phật giáo tại quê nhà cũng đồng thời dâng cao
sau chuyến viếng thăm của thầy Nhất Hạnh
Cầu nguyện cho Dân tộc và Đạo pháp có đủ thiện
duyên để hóa giải những xung đột và phi lư đang
trùng trùng biến hiện trong biển lửa giữa hoa
sen.
Sacramento, Cali. Mùa Phật Đản 2005
Trần Kiêm Đoàn
tôn
giáo - phật giáo
trankiemdoan.net
|