Trần Kiêm Đoàn
HỌC VÀ HÀNH TRONG NẾP SỐNG TÔN GIÁO Thích Đạo Quảng
Dẫn nhập:
Vấn đề giáo dục trong sinh hoạt tôn giáo và giáo dục đại chúng giữa đời thường đă được đặt ra từ thuở rất xa xưa, kể từ khi tôn giáo mới ra đời. Đa số các tôn giáo đều chủ trương rằng, giáo dục trong tôn giáo để ban truyền kiến thức cho một nhà tu hay một tín đồ tương lai cần phải được tách biệt với nền giáo dục phổ thông công cộng. Bởi vậy, các tôn giáo lớn xưa nay, thường có một hệ thống giáo dục riêng của họ. Càng về sau, nền văn minh nhân loại càng phát triển theo chiều hướng khoa học thực nghiệm th́ khuynh hướng giáo dục của các tôn giáo cũng phải chuyển ḿnh từ phương hướng gieo rắc sức mạnh thần linh (Khải huyền: Mythologization) sang phương hướng dẹp bỏ bớt các điều lư giải huyền hoặc (Giải huyền: Demythologization). Đạo Phật được xem là tôn giáo gần với sự kiện và kiến thức khoa học thực nghiệm nhất cũng đă tạo lập một thế quân b́nh giữa kiến thức phổ thông vá các tín điều, tín lư nội điển. Từ vài ngh́n năm trước, các luận sư, thiền sư, danh tăng Phật giáo là những học giả, văn nhân, thi nhân của thời đại đương thời. Riêng Phật giáo Việt Nam thời cận đại, các danh tăng là các học giả tiếng tăm và có những công tŕnh trước tác giá trị trong thế giới văn bút, học sĩ. Tuy nhiên, vẫn có nhiều giáo phái và bộ phái Phật giáo hiện đại ban hành những điều lệ riêng để cấm hay giới hạn việc các tu sĩ, tăng ni theo học các chương tŕnh phổ thông ngoài đời dựa trên căn bản giới luật rằng, người đi tu nên chuyên tâm học hành theo kinh sách nội điển để khỏi bị tán tâm và đa mang, dính mắc việc đời. Thực tế đương đại có khuynh hướng mềm dẽo hơn, rằng, tăng ni tài phải là người tinh thông các tạng kinh điển và giữ ǵn giới luật nghiêm minh đă đành, nhưng ngoài ra cần cái sở học đại chúng để làm phương tiện cập nhật và thích hợp trong quá tŕnh hoằng dương và ứng dụng Phật học. Đặc biệt từ sau năm 1975, khi Phật giáo Việt Nam có cơ hội tiếp cận với xă hội Âu Mỹ th́ nhu cầu và khả năng học thuật, nhất là khả năng nói tiếng ngoại ngữ của điạ phương sinh hoạt trở thành một nguyên tắc và phương tiện không thể thiếu trong công cuộc hoằng dương Phập Pháp vào xă hội phương Tây.
Bài viết "Học và Hành
Trong Nếp Sống Tôn Giáo" của Thầy Thích Đạo
Quảng là một trường hợp tham khảo (Case Study)
về trường hợp ứng dụng sự giáo dục phổ thông
trong sinh hoạt tôn giáo. Ban biên tập Văn Nghệ
Phật Giáo Hải Ngoại xin trân trọng giới thiệu
bài viết với quư độc giả trong tinh thần khiêm
tốn học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm thường lệ.
BBT-VNPGHN.
HỌC VÀ HÀNH TRONG NẾP SỐNG TÔN GIÁO
Thầy Thích Đạo
Quảng (chính giữa trong 5 vị áo vàng) cùng Đạo
tràng chùa Tam Bảo “Học để khoe khoang bằng cấp, học vị hay học để phụng sự, phục vụ cho đời” là một khái niệm có khoảng cách từ vế nầy sang vế kia c̣n xa lắm. Khi thông tin từ Guardian, qua họp báo ngày 12 tháng 03 năm 2019, cho biết những điều “thâm cung bí sử” rằng: Những ngôi trường hàng đầu nước Mỹ như Yale, Georgetown, Stanford và Southern California… đang bị điều tra v́ nhận tiền “hối lộ” qua h́nh thức “giúp đỡ hay ủng hộ trường” nhưng cái thâm ư là “dọn đường cho con em ḿnh vào trường học nổi tiếng” hay nói một cách b́nh dân dễ hiểu hơn là “mua trường”. Đây quả là điều cần được suy ngẫm cho tất cả chúng ta nhất là những người đang đi học hay có con em đang ở giữa ṿng quay của học vấn.
Tôi sang Mỹ theo gia đ́nh vào
năm 1994 với vốn tiếng Anh là vài từ vựng cho
vui mà thôi. Tôi không quên lời khuyên quá chân
t́nh của Sư Ông Thích Thanh Từ trong những ngày
được đi theo Sư Ông ở thành phố Houston, tiểu
bamg Texas vào tháng 10 năm 1994. Sư Ông dạy: “Nếu
Chú tính chuyện ở lại bên đây luôn th́ nên ráng
học cái tiếng nói của người ta. Chứ mấy ngày qua
đi chỗ này chỗ kia người ta nói ǵ, tôi chỉ biết
cười và nhờ người thông dịch mới biết là họ nói
ǵ.” Con thấm thía lời dạy đơn giản mà minh
triết của Sư Ông lắm v́ Sư Ông không dạy học
tiếng Anh hay tiếng Pháp mà Sư Ông dạy học “cái
tiếng nói của người ta..”
Tôi đă lắng nghe và quyết tâm
học để hiểu một ngôn ngữ mới, làm phương tiện
cần thiết tại đất nước mà Tiếng Anh là ngôn ngữ
chính thức cho mọi lĩnh vực đời sống của xă hội
Hoa Kỳ. Nếu cộng lại 3 năm học ESL (English as a
Second Language), 5 năm cho chương tŕnh Cử nhân
Tâm lư học, 2 năm cho Thạc sĩ Tâm lư trị liệu,
và 7 năm cho chương tŕnh Tiến sĩ Tâm lư học là
tôi có tổng cộng 17 năm cắp sách đến trường kể
từ khi đến “Miền Đất Hứa.” Thành thật mà nói
là hơn 17 năm cắp sách đi học và gần 25 năm định
cư tại Hoa Kỳ, tôi vẫn chưa hiểu hết “tiếng của
người ta.” Ngôn ngữ là xương sống và máu
huyết của văn hóa, cho nên hiểu trọn vẹn ư nghĩa
thâm sâu của một ngôn ngữ không phải tiếng mẹ đẻ
của ḿnh là một công tŕnh lư thuyết và ứng dụng
suốt đời. Cho dù bây giờ đang dạy học cho chương
tŕnh Psy. D (Doctor of Psychology) của trường
The Chicago School of Professional Psychology
tại đại học Xavier University, New Orleans, bản
thân tôi vẫn phải hết ḿnh vật lộn để hội nhập
làm sao cho được “hiểu hết tiếng của người ta”.
Trong một khía cạnh giới hạn
và tương đối của đời sống, tôi có được nỗi hân
hoan là đă không phụ lời khuyên rất chân t́nh và
đầy đạo vị của một bậc Thầy biểu tượng từ bi và
trí tuệ. Vốn xuất thân là con nhà nông ở vùng
quê cày sâu cuốc bẫm, nhưng tôi lại thích học;
muốn học để có những hiểu biết căn bản làm vốn
sống cho đời ḿnh. Thế nhưng lớn lên trong khung
cảnh “cái khó bó cái khôn” nên dẫu tôi có cố
gắng đến mức nào th́ cũng khó chen chân vào môi
trường đại học. Nhưng khi có cơ hội đến Mỹ th́
quả nhiên như văn hào Tony Morrison viết: “Mỹ
là vùng đất hứa v́ nơi đây là sân cỏ làm mặt
bằng cho mọi sự thi thố tài năng và đam mê học
hỏi được thể hiện trong tự do và b́nh đẳng.”
Chỉ có thể trên đất Mỹ, ở lứa tuổi quá trung
niên, người ta – và may mắn trong đó có tôi –
cặp sách đến trường hồn nhiên và tươi mát như
thuở học tṛ. Nếu có ư chí, một đứa trẻ tay
không cũng có thể đi học, vay loan, mượn tiền
của tư nhân hay nhà nước mà đi học cho đến lúc
thành tài tiến sĩ, bác sĩ là chuyện b́nh thường
khắp nơi trên 50 tiểu bang của Mỹ.
Xă hội Mỹ là xă hội mở tung
cánh cửa đại học cho mọi người ở mọi lứa tuổi,
mọi tŕnh độ và ngành nghề khác nhau. Tôi may
mắn được học với những người Thầy Cô giáo có
lương tâm và nhiệt huyết từ những lớp căn bản
cho đến những chương tŕnh cao học hay tiến sĩ
sau này. Điều quí giá mà tôi học hỏi trong suốt
mấy mươi năm đi học đó là học theo sức của ḿnh
để không bị áp lực “bằng cấp” hay học xong rồi
mà “treo bằng ngắm cho vui th́ không nên.” Tôi
cám ơn và nhớ măi Dr. John B., người Thầy dạy
tôi khi c̣n học chương tŕnh 4 năm ở Georgia
State đă nhắn nhủ rằng: “Các em học trường
nào không quan trọng bằng học như thế nào v́
bằng cấp ở các trường danh tiếng chỉ có lợi thế
cho khi ra trường đi xin việc làm, nhưng sau đó
th́ thực lực mới là quan trọng.” Tôi nghiệm
ra một điều nếu ḿnh không giỏi thật sự mà vào
trường nổi tiếng th́ bơi không kịp với người ta
cũng như không hay rất dễ bị ch́m xuồng!
Tôi vừa đọc được một bài báo
sáng nay nói con rể của Tổng thống Hoa Kỳ được
vào học Havard v́ có bố tặng cho trường 2 triệu
rưỡi đô la. Điều nầy đă nói lên một điều là tâm
lư thông thường, ai cũng thích bản thân ḿnh hay
con em vào học trường nổi tiếng. Nhưng trong số
5000 đại học và cao đẳng ở Hoa Kỳ th́ cũng chỉ
có một vài chục trường là nổi tiếng trên toàn
thế giới mà thôi.
Gần 20 năm trước tôi có cơ
duyên tiếp xúc với một số Tăng Ni theo học ngành
Phật học và Cán sự Xă hội ở trường Harvard là
ngôi trường nổi tiếng nhất ở Mỹ. Từ đó, tôi
nghiệm ra một điều áp dụng cho ḿnh rằng: Tôi
không muốn ḿnh đổi ngành học để được vào trường
danh tiếng rồi “treo bằng ngắm cho vui” th́ uổng
quá! Tôi thích học ngành Tâm Lư học (Psychology)
mà điểm vào Harvard cho ngành Psychology th́ tôi
không đủ sức. Cám ơn một Ni Sư người Việt Nam
khuyên tôi nên đổi qua ngành học Social Works
hay Buddhism th́ sẽ dễ được vào Harvard hơn. Tôi
cũng thích trường danh tiếng lắm chứ nhưng chợt
nhớ lời dặn của Dr. John B; và đồng thời, cũng
may là tôi biết ḿnh không đủ giỏi để vào trường
giỏi th́ nên kiếm trường vừa sức mà học th́
không phải “mặc cảm nhảy lầu tự tử hay lui về
quê cũ dấu thân nơi vùng quê.”
Có lẽ một số cha mẹ thường có
suy nghĩ là muốn con em ḿnh vào học trường có
danh có tiếng nên cách này hay cách khác để đưa
con cái của ḿnh được vào trường đại học có
tiếng như một “niềm tự hào cho gia tiên gịng
tộc” nhưng cha mẹ đâu có biết áp lực ở học đường
nhất là những trường “có danh có tiếng” th́ thật
sự “càng cao danh vọng, càng tày gian nan.”Thực
tế đă chứng minh một điều đáng sợ, đó là các
trường nổi tiếng nhất th́ tỷ lệ sinh viên tự tử
cũng cao nhất.
Trường đời hay trường Đạo
cũng đều có những điểm giống nhau. Nếu đi xuất
gia mà chọn lựa một vị Thầy “nổi tiếng” th́ có
khi cuộc đời tu hành trở thành “trôi nổi” bởi
cái lư do đi Tu không xuất phát từ động cơ chính
đáng và ngay thẳng. Trở lại chuyện đời riêng
ḿnh, tôi xin được nêu ra một cách chân xác để
người đi sau rút kinh nghiệm. Bản thân tôi, khi
vào Thường Chiếu xuất gia là v́ tôi ngưỡng mộ
nếp sống rất chân chất và ngay thẳng của Sư Ông
Thích Thanh Từ. Những năm đầu 1990’s Thiền Viện
Thường Chiếu c̣n mộc mạc và đơn sơ lắm. Sư Ông
cũng không có bằng cấp ǵ ở trường đời và cũng
không có địa vị ǵ ở trong Giáo Hội, nhưng Sư
Ông lại có một phong cách hiền hậu, chân t́nh
hiếm có, và tha thiết tu hành v́ lợi ích cho bản
thân và nhiều người có hữu duyên. Cho đến bây
giờ hầu như tất cả quư tăng ni xuất gia với Sư
Ông Thanh Từ đều kính ngưỡng Người như một vị
đại ân sư. Khi đi tu, tôi có được chút duyên lành là bên cạnh các cấp học theo nội quy, tự viện, tôi c̣n được đi ra bên ngoài để học. Chương tŕnh học tự do ngoài đời tuy không giống với nếp ăn, nếp nghĩ trong tự viện, nhưng vẫn rất phong phú và mang nhiều lợi lạc cho kẻ tu hành. Chương tŕnh học phổ thông đại chúng vẫn trang bị đầy đủ ngôn ngữ và kiến thức căn bản cho con đường tu tập và chia sẻ kinh nghiệm sống theo lời Phật dạy, nhằm mang lại lợi lạc và b́nh an cho ḿnh và người. Tôi luôn nhắc nhở chính ḿnh rằng, bằng cấp, học vị, học hàm… cũng chỉ là những phương tiện phù vân và rất dễ tô vẽ thêm cho cái ngă tướng vốn đă quá dày đặc với kiếp làm người. Mong đừng lấy chữ nghĩa, bằng cấp để tô đậm thêm cho bản ngă của chính ḿnh. Hăy lấy ngôn ngữ, kiến thức hay bằng cấp làm phương tiện hữu ích cho con đường hành hoạt của ḿnh. Đừng bao giờ dựa vào phương tiện học vấn, danh vị để làm thành ư nghĩ của đời sống . Chỉ có khi nào quên đi h́nh tướng và danh vị mới không mâu thuẫn với nếp sống khiêm tốn và lễ độ vốn là điều cần thiết cho tất cả mọi người, nhất là người tu sĩ Phật giáo trong mọi thời đại. Học hành và thành tựu học vị đối với người đi tu là tạo thêm phương tiện thiện xảo để hành đạo giúp đời. V́ thế, ư hướng đem cái sở học để khoe khoang là tự ư tách rời vai tṛ và trách nhiệm của người đi tu để tự độ thắng vô minh và độ tha bớt khổ. Hăy lấy việc học để làm phương tiện phụng sự cho chính ḿnh và cuộc đời.
Baton Rouge, Mar. 13, 2019
Thích
Đạo Quảng
|