LÁ THƯ HUYNH TRƯỞNG
4
ĐẠO
PHẬT TRƯỚC SỰ THÁCH ĐỐ CỦA KHOA HỌC HIỆN ĐẠI
Trần
Kiêm Đoàn
California, Hoa Kỳ ngày 13 tháng 4 năm 2006
Thư gởi các em:
Đoàn sinh Gia Đ́nh Phật Tử Việt Nam.
Các Em thân mến,
Như anh đă gợi ư với các em trong thư trước, chúng ta sẽ tiếp
tục nói đến đề tài về sự thách thức của thời đại
đối với tuổi trẻ Phật tử Việt Nam. Trong giới
hạn của một lá thư, anh sẽ tập trung vào đề tài:
“ Đạo Phật Trước Sự Thách Đố của Khoa Học Hiện
Đại”.
Trước khi vào nội dung chính, anh xin gởi lời
cám ơn các em về những ư kiến hồi âm nhiệt t́nh
và thân quư của các em.
Trong số những thư liên lạc của các em làm anh
quan tâm suy nghĩ, có thư của một anh huynh
trưởng nhận xét về t́nh trạng sinh hoạt của GĐPT
tại quê nhà có chiều suy yếu. Để tất cả chúng ta
có cơ hội đồng đều đóng góp ư kiến vào những vấn
đề chung, anh xin trích lại nguyên văn thư của
em Trương Văn Cường gởi đi từ Việt Nam ngày 26
tháng 3 năm 2006. Nội dung như sau:
Thưa anh,
Em thật xúc động khi được đọc cuốn Tạp Chí Phật
Giáo và nhất là khi được đọc bài viết "Lá thư
hải ngoại" của anh gởi về cho tất cả các em đ̣an
sinh áo Lam nơi quê nhà, đó là Việt Nam.
Thưa anh, đă không vào sinh hoạt Gia Đ́nh Phật
Tử th́ thôi, nhưng khi đă vào sinh hoạt rồi th́
không c̣n điều ǵ có thể ngăn cản ta đến với tổ
chức; đến với Gia Đ́nh Phật Tử Việt Nam.
Nhân dịp năm mới nầy, em kính chúc anh và gia
đ́nh được thân tâm thường an lạc, vạn sự kiết
tường. Ở Việt Nam hiện nay, Gia Đ́nh Phật Tử
sinh hoạt ngày càng suy yếu dần và đây đang là
một vấn đề đang được quan tâm hàng đầu; không
chỉ riêng em mà tất cả các anh chị Huynh Trưởng
thâm niên, các anh chị Huynh Trưởng có chí với
Gia Đ́nh Phật Tử. Anh có cách ǵ có thể chèo
chống nỗi con thuyền nầy không. Xin anh hăy cho
em một lời khuyên chân thành của người anh cả áo
Lam.
Cuối thư, em kính chúc gia đ́nh anh được dồi dào
sức khỏe và thư sau em xin được mạn phép nói lại
t́nh h́nh sinh hoạt GĐPT tại Việt Nam.
Kính chào tinh tấn.
Người em áo Lam
Huynh Trưởng Cấp I A-Dục GĐPT Việt Nam
Thiện Tuấn Trương Văn Cường
Cho dẫu đây là ư khiến riêng của một huynh
trưởng hay đó là ư kiến chung của các em th́ nội
dung bức thư cũng đang đi vào trọng tâm của vấn
đề mà chúng ta đang bàn thảo: Gia Đ́nh Phật Tử
Việt Nam, cùng chung với tuổi trẻ toàn đất nước,
đương đầu với những thử thách của thời đại như
thế nào.
Anh đă nêu ư kiến của Huynh trưởng Thiện Tuấn
trong một cuộc hội luận “liên lục địa” của nhóm
Thân Hữu Cư Sĩ và ban chủ biên Tạp chí Văn Hóa
Phật Giáo vào chiều thứ sáu tuần trước (Ô hay!
“Chiều ở Mỹ nhưng sáng sớm ở Pháp, Đức và buổi
trưa ở Việt Nam!) Theo ư kiến của một số cư sĩ ở
Pháp, Đức và Mỹ th́ chưa nói đến số lượng, nhưng
chỉ cần thấy được h́nh ảnh Gia Đ́nh Phật Tử Việt
Nam c̣n hiện diện sinh hoạt – sau bao nhiêu năm
thăng trầm theo hoàn cảnh – th́ cũng đă là một
hiện tượng tích cực, đầy khích lệ và đáng tự hào
của thế hệ Phật tử trẻ tại quê nhà rồi. Theo một
đạo hữu trong ban Chủ biên của Tạp Chí Văn Hóa
Phật Giáo th́ hiện nay có 67.000 huynh trưởng và
đoàn sinh chính thức đăng kư sinh hoạt. Ngoài ra,
c̣n một số lượng khá lớn huynh trưởng và đoàn
sinh GĐPTVN có sinh hoạt nhưng không đăng kư.
Tuy con số c̣n khiêm tốn so với dân số 82 triệu
người, nhưng sức mạnh tinh thần truyền thống của
người Phật tử Việt Nam không nhất thiết nằm ở
giới hạn những “số liệu thống kê” đó.
Đề tài mà tất cả các thành viên trong cuộc hội
luận nầy đều đồng ư đặt trọng tâm hàng đầu là
Đạo Pháp, Dân Tộc và Thời Đại. Để trang bị một
tinh thần “Bi – Trí – Dũng hiện đại hóa” cho thế
hệ Phật tử trẻ trước những thách đố của thời đại,
chúng ta cần những ǵ? Đấy là tinh thần khoa học,
nhu cầu trẻ trung hóa và ư thức mới. Phải cần
đến một nỗ lực tổng hợp mới mong loại bỏ được
càng sớm càng tốt năo trạng câu chấp h́nh thức
và bảo thủ địa phương để tiến vào địa bàn của
toàn đất nước và toàn cầu.
Khi nói đến khoa học, chúng ta liên tưởng ngay
đến tŕnh độ cao cấp của học vấn. Và tŕnh độ
học vấn lại được đo bằng cái thước rất tương đối
là bằng cấp, học vị mà ở đó, mảnh bằng “đốc tờ”,
mảnh bằng tiến sĩ nằm ở vị trí cao nhất. Sự đo
lường nầy lắm khi lại phản tác dụng v́ có một số
xă hội hiện nay đào tạo “tiến sĩ giấy” nhiều hơn
là tiến sĩ thật mà cụ Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn
Khuyến ngày xưa đă từng gọi là “Ông Nghè Tháng
Tám”: Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi!
Thế nhưng trong cộng đồng khoa học kỹ thuật,
muốn dùng người th́ biết căn cứ vào đâu, nếu
không dựa vào bằng cấp. Tuy nhiên, bằng cấp xưa
nay vẫn là con dao hai lưỡi v́ giá trị bằng cấp
tùy thuộc chủ yếu vào hệ thống giáo dục và đào
tạo của một xă hội, một quốc gia. Như Mỹ hiện
nay là “trùm” hoài nghi giá trị đích thực của
tất cả các loại bằng cấp nước ngoài. Bởi vậy, hệ
thống giáo dục Mỹ đánh giá thực chất kiến thức
và tài năng thực tiễn của chuyên viên và trí
thức bằng kết quả các kỳ thi trực tiếp hơn là
qua các mảnh bằng xanh xanh, đỏ đỏ dù là nội địa
hay nhập cảng. Có lẽ tất cả các em cũng như anh
đều luôn luôn ước mong xă hội nước ta cần phải
thoát ra khỏi t́nh trạng quá vụ bằng cấp rồi
lăng quên quên thực chất mà lâu nay báo chí và
môi trường truyền thông ở quê nhà thường xuyên
góp ư.
Hiện tượng “mảnh giấy làm nên thân giáp bảng”
của xă hội thời Nguyễn Khuyến là biểu hiện tiêu
cực của một nền học thuật quốc gia phản tinh
thần khoa học. Nó đă làm đă làm cho thế hệ già
khệnh khạng ôm những mớ danh xưng học vị thiếu
tri thức khoa học và bị dính chùm vào mớ bằng
cấp rỗng tuếch thiếu nội dung học thuật. Nó đă
làm nản ḷng thế hệ trẻ có nhiệt huyết và tài
năng muốn xây dựng đất nước bằng thực chất chân
chính hơn là h́nh thức dễ dăi.
Có một lần tham dự lễ tốt nghiệp của các tân
khoa tiến sĩ và bác sĩ tại trường Đaị Học Nam
California (USC), anh nghe một vị giáo sư, tiến
sĩ - bác sĩ Roy Sumpter, phát biểu có một ư rất
đáng ghi nhận rằng: “Khi bạn đỗ cử nhân
(bachelor), bạn tưởng rằng ḿnh biết tất cả v́
bạn chỉ được đào tạo trong một chừng mực hợp lư
để có thể ra làm một chuyên viên trong một lĩnh
vực giới hạn nào đó. Khi bạn đỗ thạc sĩ (master)
bạn biết khá hơn một chút rằng, bạn chỉ học được
một phần trong lĩnh vực chuyên môn rất mênh mông
của bạn. Nhưng khi bạn đỗ tiến sĩ (doctor) bạn
mới biết rằng, bạn chưa biết ǵ cả, v́ giá trị
của bậc giáo dục cao cấp không phải là để truyền
thụ vốn kiến thức đă có sẵn trong sách vở mà chủ
yếu là đào tạo cho bạn một Phương Pháp Luận
(methodology) để bạn sử dụng như một phương tiện
tốt mà t́m ṭi, khai phá”.
Các em ạ, anh nghĩ rằng Phương Pháp Luận mới là
yếu tính của khoa học. Sẽ không có những sản
phẩm khoa học kỹ thuật tinh vi và tân tiến như
ngày nay nếu lịch sử khoa học thiếu vắng phương
pháp t́m ṭi, nghiên cứu, kiểm nghiệm để đưa ra
những nguyên lư đúng nhằm giải thích hiện tượng
và giải quyết vấn đề một cách thỏa đáng, rạch
ṛi, minh bạch. Đạo Phật được xem là một hệ
thống triết lư, tư tưởng khoa học bởi v́ đạo
Phật dùng một phương pháp luận rất khoa học. Đạo
Phật sẽ không tồn tại đến ngày nay nếu đạo Phật
tách rời cuộc sống hiện thực của con người để
theo đuổi một thế giới viễn mơ, một cứu cánh
hoang tưởng. Khoa học nói: “Hỡi thế giới nguyên
sơ đầy hùm beo, ta sẽ khai sáng ngươi để đánh
tan ù ĺ và mông muội. Muốn thế ta phải biết rơ
ngươi là ǵ, là ai, là thế nào, là phải làm sao
để biến đổi kẻ dă man thành người tử tế”. Đức
Phật dạy trong bài học khai tâm cơ bản đầu tiên
cho năm anh em Kiều Trần Như trong vườn Lộc Uyển:
“Cuộc đời nầy vốn khổ. V́ sao mà khổ. Làm thế
nào để khỏi khổ. Ta thấy con đường diệt khổ.
Người có muốn hết khổ th́ nương theo con đường
diệt khổ ấy mà đi”! Cốt lơi của “khổ đế” trong
đạo Phật là vô minh. Nguyên nhân của phi khoa
học là sự dốt nát. Đường khoa học và chân lư
khách quan không thể có được bằng sự áp đặt và
hứa hẹn. Trước vấn đề, phải tự chính ḿnh t́m
hiểu. Rồi t́m cách giải quyết vấn đề. Cũng thế,
khoa học là nắm bắt bằng thực nghiệm, không có
bắt buộc hay hứa hẹn vu vơ bằng những điều ngoài
chính nó.
Khái niệm và chu tŕnh cơ bản nhất của khoa học
là đặt vấn đề, quan sát, kiểm nghiệm và chứng
minh để t́m ra nguyên lư. Đạo Phật nh́n thấy vấn
đề; quán tưởng và suy niệm để thấy rơ nguyên
nhân của vấn đề; chính ḿnh thực chứng để t́m ra
chân lư giải quyết vấn đề. Tứ Diệu Đế – Khổ, Tập,
Diệt, Đạo – là một biện chứng khoa học. Bát
Chánh Đạo là một cấu trúc chặt chẽ trong tiến
tŕnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học. Thập Nhị
Nhân Duyên là tác động hỗ tương nhân quả của một
quá tŕnh thực nghiệm khoa học. Phật tính trong
mỗi chúng sanh trong lời dạy của đức Phật là
những chủng tử nguyên tử tinh yếu nhất nằm sẵn
trong ḷng vạn vật thiên nhiên mà khoa học
thường nhắc đến.
Giới hạn của một lá thư không cho phép anh em
chúng ta luận bàn và phân tích sâu rộng nhăn
quan khoa học của đức Phật trong cả hai lĩnh vực
thực nghiệm và tâm linh. Suốt cả thế kỷ 20, nhân
loại đă tự ḿnh khai sáng (clarification) và
giải huyền (demythologization) để thoát ra khỏi
phần nào bóng tối âm u của giáo quyền và tín
điều phi khoa học. Nhân loại đă đề cập đến tinh
thần khoa học của đạo Phật dưới h́nh thức nầy
hay h́nh thức khác qua nhiều thế kỷ và bởi nhiều
trường phái. Không phải chỉ ở phương Đông mà ở
phương Tây, từ Albert Einstein đến Carl Jung,
Karen Horney, Erich Fromm, Martin Heidegger,
Thomas Merton, Alan Watts… đều ca ngợi và chịu
ảnh hưởng tính lô-gích, tính khoa học của Phật
giáo trong cách nh́n ngắm và nhận định về thế
giới và con người.
Trong đời sống tâm linh và tri thức, kẻ thù của
khoa học là tâm lư tiểu xảo v́ sự tiểu xảo là
nguyên nhân của cái nh́n chủ quan, méo mó và
phiến diện về con người và cuộc đời. Triết lư
đạo Phật đă cung cấp nhiều cách nh́n, cách phản
ứng khác nhau. Con số thường được nhắc đến như
một biểu tượng “hằng hà sa số” của Phật giáo là
ư niệm “tám vạn bốn ngàn pháp môn”. Những pháp
môn trùng điệp của Phật giáo xứng hợp với khái
niệm “không gian vô số chiều” của nền khoa học
kỹ thuật hậu E=MC² (Einstein). Thế nhưng, mọi
h́nh tướng, mọi thể tánh nhất thiết sẽ quy về
không tánh, về “vạn pháp quy nhất”. Cái ṿng
Không rất tṛn trịa nầy như như bất động và sẽ
“không mất một ly, không đi một mảy” gợi lên
khái niệm tương đồng của nguyên lư Bảo Toàn Năng
Lượng trong khoa học hiện đại.
Các em thân mến,
Khi nói về tính khoa học của Phật giáo, anh
không cố ư đem những nguyên lư và dữ kiện khoa
học để gán ép cho Phật giáo một cách máy móc,
ngô nghê hay ngược lại để giải tỏa “mặc cảm tôn
giáo” qua nỗ lực viễn mơ, soi rọi tín lư bằng
tia la-de của lư tính. Điều anh muốn nhấn mạnh ở
đây là sự nhất quán của Phật giáo. Phật giáo có
trong từng cội rễ của hơn 26 bộ phái khác nhau;
nhưng từng bộ phái không có chung một bản sắc
Phật giáo như nhau. Tương tự như cái tai, cái
ṿi, cái chân, cái ngà là những bộ phận của một
con voi nhưng tách ra từng bộ phận riêng lẻ th́
nó không phải là con voi…
Các em ạ, chúng ta là Phật tử, được suy tư,
ngưỡng vọng và tắm gội trong suối nguồn đạo Phật.
Đạo Phật, tự thân, là một biển lớn thái hoà,
mênh mông và an lạc. Bởi vậy, trong hướng nh́n
tích cực, không có sự phân hóa hay rạn nứt nào
có ư nghĩa hoặc có lư do tồn tại trong một đại
dương Phật giáo. Nếu có bộ phái, tập đoàn hay cá
nhân nào đó cố t́nh gây ra thế phân hoá th́ đấy
là một sự vô minh, một lối vọng động phi Phật
giáo. Và, một khi nội dung đă không phải là Phật
giáo th́ chúng ta quan tâm đến h́nh thức làm ǵ.
Những khe, những suối, những ao hồ, sông lạch có
thể có ḍng chảy riêng, nhưng tất cả đều được
hoá giải khi chảy về biển mẹ. Những đơn vị Gia
Đ́nh Phật Tử Việt Nam đang là những ḍng sông
thanh tân chảy về biển Phật.
Tính khoa học của đạo Phật chính là hướng nh́n
tích cực, là ngọn đuốc soi đường của một tiến
tŕnh tự thân hóa giải. Mỗi thành viên trong đại
GĐPTVN giữ vững đạo tâm của ḿnh và “củng cố đạo
tâm” của người bằng nhiều cách. Cách nào cũng
hay, miễn là đang vững vàng tiến bước trên đường
Đạo. Sự chia rẽ, phân hóa đáng sợ nhất đối với
người Phật tử là hiện tượng xâu xé nội bộ, khi
những người anh em không nh́n rơ hay cố t́nh
không nh́n rơ mặt nhau. Sự suy yếu sẽ bắt nguồn
từ đó.
Anh ước mong tất cả các em hăy cố gắng nh́n rơ
và nh́n kỹ mặt nhau bằng lăng kính Áo Lam và
bằng ánh sáng Đạo Vàng.
Thư đă dài, xin hẹn với các em thư sau.
Thương mến chào tất cả các em với lời chúc tinh
tấn và an lạc.
Nguyên Thọ Trần Kiêm Đoàn
Liên lạc:
Doantran@sbcglobal.net
http://www.trankiemdoan.net
trở về tôn giáo - phật
giáo