NĂM MỚI…
PHẬT TỚI THẾ
GIAN.
Một
trường hợp đức Phật thị hiện thế gian?
Ngày 12 tháng
11 năm 2008, tin từ Nepal do hăng tin AP truyền
đi khắp thế giới rằng, hàng chục ngh́n người đă
đổ về khu vực rừng núi Ratanpur cách thủ đô
Katmandu của Nepal hàng trăm dặm để chiêm bái
một vị Phật mới ra đời.

Theo dơi
phóng sự h́nh ảnh của AP, người ta thấy "đức
Phật hóa thân" là một thanh niên 18 tuổi, tóc
đen dài quá vai, nét mặt trầm tĩnh, dáng dấp
thanh tú, khoẻ mạnh, đẹp trai. Theo sự điều tra
và theo dơi của các phóng viên phương Tây th́
những người đến chiêm bái có nhiều tu sĩ Nepal,
Tây Tạng và các học giả chuyên đề Phật giáo.
Trong số hàng ngh́n khách đến viếng "Phật sống
hóa thân" trong ngày thứ Tư hôm nay có người tin
tưởng tuyệt đối đây quả thật là đức Phật Thích
Ca Gautama đă xuất hiện cách đây hơn 2500 năm
nay hóa thân trở lại. Có số khác hoài nghi
không biết hư thực thế nào. Và, cũng có người
cho đây là "Phật giả" được dựng nên để làm tiền
khách thập phương.
Với mạng lưới
truyền thông đại chúng nhanh như điện của thế kỷ
21, chẳng có ǵ là bí ẩn, huyền thoại dưới ánh
mặt trời.
Khách địa
phương đến chiêm bái đă cung cấp thông tin rằng,
"cậu thanh niên Phật" (Buddha Boy) đó tên là
Ram Bahadur Bamjan, 18 tuổi. Cách đây 3 năm,
ngày 17 tháng 5 năm 2005, khi mới 15 tuổi, cậu
Ram đă xuất hiện lần đầu tiên tại vùng rừng núi
Bara nầy. Người ta thấy Ram ngồi xếp bàn im
lặng dưới gốc cây đại thụ, xung quanh có rễ già
bao quanh làm thành một cái hang. Cậu Ram ngồi
nhắm mắt, không cử động suốt ngày như thế.
Chiều lại, có “đệ tử” buông một tấm rèm cách cậu
chừng vài ba chục mét để cách ly cậu với mọi
người ṭ ṃ vây quanh. Tin lan truyền ra là cậu
Ram đă ngồi thiền định như thế liên tiếp trong
nhiều tháng mà chẳng ăn chẳng uống ǵ cả. Một
thời gian sau, cậu Ram mất biệt trong rừng chừng
một năm và nay xuất hiện trở lại.

Tuy cậu
Ram không thuyết giáo hay nói ra điều ǵ minh
triết, nhưng số quần chúng truyền nhau nguồn
thông tin chung rằng, một người ngồi định tâm
suốt ngày, không ăn uống ǵ “hàng tháng” (?)
trời như thế tất phải là một đấng siêu phàm như
tiên, phật, trời... nào đó. Tuy nhiên,
theo ông Shakya
thuộc Trung tâm nghiên cứu Phật Giáo Nepal th́
thiền định và việc không ăn, không
uống
dài ngày chẳng phải là những chứng lư để cho
rằng, chàng trai nầy là hóa thân của đức Phật.
Hai trung tâm nghiên cứu Phật giáo và Trung tâm
Chánh thiền Long Thọ (Nagarjuna
Institute of Exact Methods)
của Nepal tại thủ
đô Kathmandu không hề đưa ra bất cứ chứng cớ hay
giải thích nào về hiện tượng chàng Ram là hóa
thân của đức Phật Thích ca v́ rằng họ chưa “chưa
đầy đủ chứng lư và dữ kiện” về chàng trai nầy.
Trong lúc đó,
các nhóm săn tin thuộc môi trường truyền thông
đại chúng phương Tây cố điều tra cho ra sự thật
th́ chỉ mới đưa ra một nhận xét đầy hoài nghi
rằng, buổi chiều tối, khi tấm màn đă buông xuống
để che khuất cậu Ram th́ cậu có thể ăn uống hay
làm ǵ khó ai mà biết được (?!)
Ư nghĩa
của khái niệm tái sinh
Thuyết luân hồi (Phạn: Samsàra; Anh:
Incarnation) là
một tín lư rất quan trọng trong đạo Phật . Với
số tín đồPhật giáo hiện nay là 325 triệu người
trên khắp thế giới, hầu hết tin tưởng vào thuyết
luân hồi, tái sinh. Tuy nhiên mức độ tin tưởng
và khả năng phân tích, giải thích cao thấp không
giống nhau.
Những tôn
giáo xuất hiện hàng ngh́n năm trước khi Phật
giáo ra đời tại Ấn Độ như Bà La Môn cũng nói về
nghiệp và luân hồi, tái sinh nhưng qua lăng kính
tiêu cực và thụ động đầy tính bí ẩn và thần
thoại. Măi cho đến khi Phật Thích Ca ra đời mới
thật sự nh́n nghiệp và tái sinh bằng một tinh
thần tích cực và chủ động. Nghiệp và Ngă tương
tác như năng lượng và đối thể tiêu thụ hay bảo
tồn năng lượng. Tiêu dùng nhiều th́ mau cạn kiệt;
để dành càng nhiều th́ tích lũy càng lớn. Năng
lượng chỉ chuyển biến h́nh thái và trôi chảy qua
nhiều dạng thức chứ không bao giờ mất đi. Tương
tự như thế, Nghiệp là “năng lượng” mất đi hay
tích lũy thường hằng biến chuyển trong mỗi sinh
vật. Con người không thể chạy trốn chính ḿnh.
Cũng tương tự như thế, người ta không thể nào
“gian lận” về năng lượng như dùng nhiều mà nói
ít hay ngược lại. Con người là chủ thể trong
việc tạo nghiệp hay giải nghiệp. Và cũng chính
con người giữ phần quyết định cho kiếp lai sinh
của ḿnh: “Muốn biết kiếp sau của ḿnh như
thế nào th́ hăy nh́n vào việc làm của chính ḿnh
trong kiếp hiện tại.”
Phật giáo
nguyên thủy từ Ấn Độ truyền qua Trung Hoa từ đời
Đông Hán, nhưng thật sự phát triển và đi vào
quần chúng từ thế kỷ thứ III. Màu sắc triết lư
sâu thẳm, nặng tính kinh viện của Phật giáo Ấn
Độ đă được đại chúng hóa ở Trung Hoa. Nơi đây,
Phật giáo đại thừa được xiển dương và phát triển
qua nhiều triều đại. Mảnh đất của thi ca, triết
học và thần kỳ đă làm cho tư tưởng Phật giáo ḥa
quyện vào đời sống tâm linh, đáp ứng khát vọng
và ước mơ về một thế giới an lạc, sung sướng lư
tưởng nhất gọi là cơi Tây Phương Cực Lạc. Hạnh
phúc lư tưởng nầy – về mặt tâm linh và lư thuyết
– bắt rể từ trong cuộc sống hiện thực và kéo dài
đến một viễn ảnh sống gởi thác về mai sau.
Nhánh Phật
giáo từ Ấn Độ truyền vào các xứ quanh vùng Hy Mă
Lạp Sơn như Tây Tạng, Nepal, Miến Điện, Tích Lan...
đă thấm vào văn hóa đặc thù của các xứ nầy mang
một mầu sắc khác. Vùng Hy Mă Lạp Sơn thường
được gọi là “mái nhà của thế giới” v́ có địa thế
kỳ tú và hiểm trở, với núi non cao vút như viền
mái che khuất trời xanh. Sống giữa thiên nhiên
huyền bí, nên nếp sống và nếp nghĩ của con người
bản xứ cũng mang đậm nét kỳ bí lạ lùng. Ranh
giới giữa lư luận và trực giác thường xuyên
“vượt biên” gối lên nhau đến nỗi những nhà luận
lư học phương Tây vốn quen với những nếp nghĩ
duy lư, rạch ṛi chỉ có thể gọi một cách mơ hồ
là “phương Đông huyền bí!” Hiện tượng tái sinh
của những hài đồng Lạt Ma được xem như là sự hóa
thân tất yếu, b́nh thường, tự nhiên. Con người
và thần thánh gần như sống chung bàng bạc trong
mây khói của những hang động núi rừng thâm u.
Hoàn cảnh địa
lư thường là nhân tố trực tiếp sinh ra khung
cảnh xă hội và khuynh hướng suy tư. Lư thuyết
căn bản của nhà Phật không sai khác, nhưng
phương tiện để học, hiểu và thực hành th́ nhiều
vô số kể, tùy thuộc vào những điều kiện xă hội
của quần chúng theo đạo Phật trong từng thời kỳ
và môi trường sống khác nhau. Có thể nói có bao
nhiêu người theo đạo Phật để học đạo và hành đạo
nghiêm túc th́ có bấy nhiêu cách vận dụng phương
tiện thích ứng. Tám vạn bốn ngàn pháp môn chỉ
là một con số tượng trưng làm biểu kiến cho số
phương tiện nhiều không đếm hết đó. Xe lớn hay
xe nhỏ (tiểu thừa, đại thừa), ngựa Bắc
hay ngựa Nam (thiền tông, tịnh độ), thánh
hay phàm (xuất gia hay tại gia)... trong
sinh hoạt Phật giáo đều là phương tiện để chuyển
tâm và hóa đạo. Đọc phẩm Phương Tiện và
phẩm Thí Dụ trong kinh Diệu Pháp Liên
Hoa đức Phật đă thuyết giảng rằng, để
cứu những đứa con đang măi vui chơi vô tư trong
căn nhà đang cháy, người cha phải hô lên là có
những cỗ xe to, xe vừa, xe nhỏ do voi, ngựa, dê
kéo đang chờ ngoài cửa. Mục đích là để dụ đàn
con đang c̣n ham vui chơi trong căn nhà lửa,
nghe xe ngựa hấp dẫn réo gọi nên ùa ra chơi xe,
thế là chạy ùa ra ngoài, thoát khỏi ṿng lửa
cháy. Sự thật th́ chẳng có cổ xe lớn nhỏ nào cả
mà chỉ có cổ “xe Phật Đà” làm phương tiện cứu
mạng sống của đàn con mà thôi.
Làm chính trị
mà nhầm lẫn giữa phương tiện và cứu cánh sẽ có
khả năng gây ra cảnh gây chết người oan uổng;
sinh hoạt tôn giáo mà nhầm lẫn giữa phương tiện
và cứu cánh sẽ có khả năng biến đức tin thành mê
tín dị đoan, hạ thấp phẩm chất của đời sống tâm
linh.
Hiểu Phật
giáo như một triết thuyết, một tôn giáo hay là
một phương tiện giáo dục thực hành để giúp đời
bớt khổ đều đúng. Nhưng hiểu Phật giáo một cách
đơn giản và máy móc theo tinh thần sùng bái phép
lạ và chấp chặt vào h́nh tướng, vào chữ, vào câu
là lạc hướng.
Khi nói đến
Phật là nói đến hằng hà sa số chư Phật và tánh
Phật thường trú trong mỗi sinh thể hay chúng
sinh. H́nh ảnh đức Phật Thích Ca ngồi thiền
định dưới gốc cây bồ đề một thời xa xưa ở Ấn Độ
đă trở thành một biểu tượng. Đó là biểu tượng
của một sinh thể qua nhân dáng đă giác ngộ, đạt
đỉnh điểm của trí tuệ sáng ngời và công hạnh tu
tŕ thành tựu viên măn. Đạo Phật quan niệm mọi
vật đều đang trên một tiến tŕnh xoay chuyển
thay đổi, không hề có một sự dừng lại để xác
định cho được một cái “chính nó” mà chữ nghĩa
giới hạn tạm gọi nó là cái “Ngă”. Không ai nắm
lại được một ánh chớp, một thoáng thời gian, một
khoảng cách không gian trong trong ḷng bàn tay
ḿnh được cả. Vậy nên không có điểm tụ, điểm
dừng cho cái ngă (ta, tôi, nó, chúng...) bất cứ
ở đâu và bất cứ thời nào. Khẳng định và quyết
đoán ngă ta, ngă ngài, ngă ông, ngă chúng thế
nầy, thế nọ là chấp ngă, cụt đường. H́nh tướng
là một phương tiện để định tâm, tỉnh trí tạm
thời. Đi t́m nhân dáng, ảnh tượng mang dáng dấp
của Phật để bị dính mắc vào khái niệm là “Phật
thật” hay “Phật giả” là thực hành tà đạo, không
thấy được Như Lai.
Trong bài
viết On Reincarnation (Về Chuyện Tái Sinh),
đăng trên Liên mạng Phật giáo “www.
Buddhanet.net”, thiền sư Tukashi Tsuji đă
nhấn mạnh rằng, xưa nay có một sự hiểu lầm thô
thiển về vấn đề tái sinh trong Phật giáo:
“Tái sinh không phải đơn giản là một sự di
chuyển đổi mới, tái sinh về thể xác, như khi cho
rằng chàng John sẽ bị tái sinh thành con mèo vào
kiếp sau chẳng hạn. Đây là trường hợp thường
được hiểu như John có một linh hồn bất tử để
chuyển hóa vào thể xác của con mèo sau khi anh
ta chết. Và cứ thế, sự tái sinh đổi hồn cũ qua
xác mới cứ lập đi lập lại hoài. Trường hợp nếu
gặp may, John sẽ sinh làm người trở lại. Quan
niệm tái sinh hiểu như sự di cư tạm trú của linh
hồn từ thể xác nầy sang những thể xác khác tuyệt
nhiên không hiện hữu trong Phật giáo.” Sư
Tsuji không nói rơ sự luân hồi và tái sinh tiêu
biểu diễn ra như thế nào. Nhưng ông chỉ h́nh
dung ra rằng, những kẻ c̣n đang sống mà khao
khát quyền lực và tiền bạc quay quắt là đang
sống kiếp quỷ đói. Kẻ c̣n sống mà bất chấp đạo
lư, thiện ác, phải trái là đang sống kiếp súc
sanh ngay giữa cuộc đời nầy.
Tương tự như
thế, đạo Phật phủ nhận quan niệm “số phận” của
con người. Đấy là một sự an bài thường được hiểu
như có sự xếp đặt sẵn của một thế lực làm chủ
như ông Trời, Thần linh, Thượng Đế... mà con
người phải buông tay nhận chịu. Phật giáo quan
niệm Nghiệp là động lực chi phối tất cả. Nghiệp
(Karma) có nguồn gốc từ tiếng Phạn “Kri” có
nghĩa là làm ra, tạo nên hay “hành động”. Nó
chi phối sự vận hành liên tục của vũ trụ trong
chuỗi dây xích có mối liên hệ nhân quả “Ở
hiền gặp lành; gieo gió, gặt băo.” Cho nên
thân, ư, khẩu là ba nghiệp tạo nên hành động của
con người. Nghiệp là sản phẩm của chính con
người, nên phải do chính người đó sửa đổi. Thầy
giáo có thể giúp học tṛ biết chữ; thầy thuốc có
thể giúp người bệnh chữa lành bệnh; nhưng thầy
giáo không thể học thay cho tṛ và thầy thuốc
không thể uống thuốc thay cho con bệnh được.
Nghiệp được
xem như là một nguồn “năng lượng luân lư đạo đức/tâm
linh” (moral/spiritual energy). Nền vật lư học
hiện đại đă xác minh nguyên lư bảo toàn năng
lượng (law of conservation of energy) rằng, mọi
năng lượng trong trời đất không bao giờ mất đi
mà chỉ chuyển hóa h́nh thái. Tương tự như thế,
nghiệp cũng sẽ không bao giờ mất đi mà thường
xuyên chuyển hóa liên tục dưới muôn vàn h́nh
thái theo nguyên lư bảo toàn năng lượng luân lư
đạo đức và tâm linh.
Một tiếng sét
bùng nổ là khi hai luồng điện âm dương chạm vào
nhau. Nguồn điện năng chuyển hóa thành ánh sáng,
âm thanh, nhiệt lượng bùng lên trong nháy mắt
ngỡ như mất đi nhưng thật sự vẫn c̣n nguyên
nhưng đă “hợp duyên” chuyển hóa thành những thể
trạng năng lượng mới. Dưới tác động của nghiệp,
con ngướ sinh ra, lớn lên, xây dựng sự nghiệp;
già cả, bệnh tật, chết đi... và chuyển theo
nghiệp! Tiếng sét và đời người xuất hiện, rồi
chuyển hóa và vận hành theo sự tác động phối hợp
tương tác qua lại mà đạo Phật gọi là “duyên khởi.”
Từ vô thủy
đến vô chung là khoảng thời gian không biên giới.
Khoa học hiện đại với mọi phát hiện và ức đoán
xa vời nhất cũng chỉ mới nói chuyện lịch sử vũ
trụ trong ṿng... 18 tỷ năm (?!). Nếu 18 tỷ năm
đó đă có những sinh linh nguyên thủy rồi tận
diệt v́ bom nguyên tử và tai họa “Global
Warming” (quả đất đang nóng lên v́ bị thiêu đốt
bởi tham vọng vật dục của con người) như chúng
ta bây giờ -- 18 tỷ năm sau -- th́ cái Nghiệp
cũng đă đeo đẳng thế giới vật lư và tín lư của
con người dài như thế.
Hiện tượng
“Phật hiện thế gian” như đang xảy ra với thanh
niên Ram Bahadur Bamjan ở Nepal cũng chỉ là một
phương tiện chuyển tải và chia sẻ nếp sinh hoạt
tâm linh rất b́nh thường của Phật giáo hợp với
căn cơ của người quanh các xứ đó mà thôi. Dưới
tác động của vô thường biến dịch không ngưng
nghỉ, chuyện đức Phật Thích Ca ngày xưa có tái
sinh thị hiện trở lại giữa thế gian này hay
không chẳng quan trọng bằng qua h́nh ảnh chàng
“thanh niên Phật” đó, người tin theo có cơ hội
học hỏi, thu nhận và đánh thức được Phật tánh
trong tự thân hay không và tới mức độ nào. Đóa
sen trong tay Phật chính là phương tiện t́m ra
tánh phật (tĩnh từ không viết hoa) trong chủ thể
và cả trong đối thể khi Ca Diếp nh́n sen mà mỉm
cười trong đại hội Liên Hoa. Cậu Ram là Phật
đối với người nh́n cậu mà cảm nhận được tánh
thật của chính ḿnh. Nhưng cậu Ram chỉ là câu
chuyện cười đối với người nh́n cậu mà không thấy
Phật, chẳng thấy ḿnh, vô thưởng vô phạt mà Phật
giáo thường gọi là hư luận.

Tới bến
-- ba la mật đa -- paramita
Đă hơn 2500
năm qua, đạo Phật giữa đời người như một biển
lớn bao la.
Trải qua bao
nhiêu giông băo, biến cố, thời gian mưa nắng dập
vùi, nhưng biển khơi đă hóa giải được tất cả.
Cũng có lúc biển cả phải lên sóng lớn v́ gió
cuồng. Phải nổi ba đào v́ trăm ḍng khe suối
hung hăn đều trôi về biển. Phải sủi bọt đục
ngầu v́ chấp chứa hết cả rác và hoa của núi
rừng, đồng bằng, nhân gian bị tàn phá không phân
biệt. Nhưng cuối cùng, biển cả vẫn trở về tĩnh
lặng, trong ngần. Người theo đạo Phật thản
nhiên và mỉm cười “thế à” trước những biến động
phù du của muôn vàn khe suối xung quanh. Chỉ sợ
một lần bị đắm ch́m trong ḍng khe suối chấp
vọng, vô minh rồi xa măi bến bờ an lạc. Người
ta vừa thú vị với hài tính, nhưng cũng vừa xúc
động với khát vọng giải thoát khi đọc lại mạch
văn của Thiền sư nổi tiếng Thái Lan, Luang Phor
Khun, diễn dịch câu thần chú kết thúc kinh Bát
Nhă “Gate, gate, paragate, parasamgate,
bodhishatva: ngoi lên, ngoi lên, ngoi lên đi,
ngoi lên được rồi, thoát hiểm!” Vâng, một
bữa tiệc sang trọng của một đại gia khát khao
danh vọng và một chén cơm nguội đối với một kẻ
nghèo khó đói ḷng, chắc ǵ hạnh phúc nào sẽ lớn
lao và đích thực hơn. Giữa hai bờ đối đăi nhị
nguyên, người ta ṭ ṃ t́m cậu Ram để đo lường
thật giả. Nhưng với tinh thần Trung đạo của
Phật giáo th́ chẳng có ǵ quan trọng. Nếu chưa
phải hôm nay th́ mai kia, chúng ta đều là Phật
tương lai.
Trần Kiêm Đoàn
Natomas,
California ngày Thanksgiving 2008
tôn giáo - phật giáo