sen đồng phơi
lửa hạ '63
Trần Kiêm Đoàn
Huynh
trưởng miệt đồng
Khát vọng bất tử là một là một ước mơ truyền đời đầy bi
tráng của kiếp người yếu đuối. Cái chết vẫn là một ẩn số mà
chỉ có đức tin tôn giáo mới mong t́m ra một đáp án tạm thời
bằng cách xây dựng một ẩn số khác. Niết bàn, thiên đàng, cơi
trời... vừa là một đáp án nhưng cũng vừa là ẩn số của niềm
tin để cụ thể hóa khát vọng của con người về một kiếp sống
miên viễn ở một thế giới, một cơi đời, một vùng đất hứa khác.
Bởi thế, Thiên Chúa giáo khẳng định qua lời phán của Chúa:
“Ai tin ta và theo ta sẽ được cứu rỗi và an hưởng sự sống
đời đời...” Phật giáo đi vào cuộc đời không phải nhằm để thể
hiện quyền năng trên chuyện sống chết mà để giải phóng ám
ảnh tù đày về chuyện sống chết. Sự sinh diệt trong nhân sinh
quan Phật giáo là một tiến tŕnh thành-trụ-hoại-không, luôn
luôn biến dịch trong ṿng sinh thái: Từ chủng tử trở nên
hiện h́nh; từ hiện h́nh quay về chủng tử. Cho nên, “sự sống
đời đời” trong ư thức hệ Phật giáo là trạng thái Vô Sanh –
Vô sanh, vô tử, vô khứ lai!
Đức tin là một sản phẩm của văn hóa và tâm lư tôn giáo, nên
nhiều khi đức tin là một sự tâm đắc, hay nói theo ngôn ngữ
của tôn giáo là một sự “mặc khải huyền nhiệm”, không thể
nghĩ bàn...
Tôi sinh ra và lớn lên ở chốn đồng quê, ở đó, đức tin cũng
tự nhiên như những gốc lúa: Dân làng sinh ra để sống bằng
cơm gạo. Muốn có cơm gạo th́ phải trồng lúa; lúa mọc lên từ
đất. Một năm hai mùa, nơi đâu c̣n có con người th́ có những
gốc lúa. Lúa hột, lúa mạ, lúa non, lúa trổ đ̣ng đ̣ng, lúa
phơi mao ngậm sữa, lúa chín, lúa vàng, lúa giă thành gạo và
gạo nấu thành cơm. Cái ṿng tuổi xanh, tuổi chín, tuổi vàng
của con người làng quê gần gũi với tín lư của Phật giáo một
cách hài ḥa đến tự nhiên. Và, niềm tin tôn giáo của người
nông dân trong bối cảnh văn hóa miệt đồng cũng an nhiên tự
tại và nhẹ nhàng như thế đó.
Như cây đa đầu làng và bến sông nhấp nhô những tảng đá cừ
xanh rêu, khi tôi mới ra đời th́ Phật giáo đă ở đó. Những
bước chân chim đầu tiên đi chùa với mẹ tôi yên chí là ai
cũng phải có một ông Phật để thờ cúng. Măi cho đến tuổi khai
tâm đi học trường Đạo tôi mới vỡ lẽ ra rằng, c̣n ông Chúa
cũng “to” như ông Phật để mà thờ. Cái bóng hạnh phúc tôn
giáo trong tuổi hoa niên của tôi không phải là ông Chúa hay
ông Phật mà là bầu không khí và giao t́nh ở nơi thờ tự.
Phật Đản năm 1963 không đến với tôi một cách nhẹ nhàng và
hồn nhiên như mọi năm v́ từ mùa Đông năm 1962, khi các anh
huynh trưởng lớn tuổi đi lính, tôi phải thay thế lên làm
liên đoàn trưởng Gia đ́nh Phật tử Liễu Hạ ở vào một lứa tuổi
chưa được chuẩn bị sẵn sàng cho chức vụ mới.
Ở vùng quê tôi, rằm tháng tư đến sau mùa gặt Đông Xuân, khi
nắng ấm đă về trên khắp xóm làng, khi cây trái, lúa gạo và
ḷng người tràn đầy nhựa sống. Nhờ vậy lễ Phật Đản thường
được tổ chức long trọng và rực rỡ khắp vùng.
Tháng tư âm lịch năm 1963, đầu mùa hạ, trời không mưa nên
hoa đèn, cờ xí đón mừng Phật Đản được trang hoàng từ một
tuần trước ngày lễ. Ở làng tôi và khắp các vùng thôn xóm
khác, từ đường quan lộ đến quyền môn, cổng xóm, hàng tre,
đ́nh chùa, tư gia... đâu cũng có bóng dáng tung bay của cờ
đèn Phật giáo đă được giăng lên để chào đón ngày Phật đản
sanh.
Một ngày trước lễ Phật Đản, bác khuôn trưởng Quyền Vân và
tôi, đại diện cho Khuôn hội Phật giáo và gia đ́nh Phật tử
Liễu Hạ, được gọi về xă, đến trụ sở xă Hương Cần để họp khẩn
cấp. Khi chúng tôi đến th́ các thành phần lănh đạo Khuôn hội
và liên đoàn trưởng Gia đ́nh Phật tử các làng khác như Triều
Sơn Trung, Hương Cần, Vân Cù, Cổ Lăo, Nam Thanh, An Thuận
đều đă có mặt. Ai nầy đều giật ḿnh khi ông chủ tịch Xă đọc
và giải thích thông cáo của chính phủ là: “Kể từ Phật Đản
năm nay (1963), chỉ cho phép Phật giáo treo cờ hay giăng đèn
mừng lễ Phật Đản và tất cả các lễ khác giới hạn trong chùa
hay xung quanh bên trong khuôn viên chùa mà thôi. Cấm treo
cờ Phật giáo bên ngoài chùa như thường lệ mỗi năm.” Ông xă
trưởng giải thích là việc ngăn cấm như thế nhằm để “bảo vệ
an ninh trật tự công cộng”. Mọi thắc mắc kế tiếp đều được
“trả lời một cách không trả lời ǵ cả” bằng câu nói cửa
quyền muôn thuở là “thi hành nghiêm chỉnh chỉ thị của cấp
trên!”
H́nh ảnh các em thiếu nam, thiếu nữ, oanh vũ nam, oanh vũ nữ
trong đồng phục áo lam vội vàng đi quanh các xóm với các anh
chị huynh trưởng để tháo cờ và xếp cờ Phật giáo trong im
lặng vừa tội nghiệp vừa buồn trong nỗi uất ức v́ không ai
hiểu tại sao “năm nầy lại khác mọi năm?!” Nhưng dẫu sao th́
niềm vui vẫn c̣n hứa hẹn v́ cuộc cắm trại Phật Đản của Liên
Gia đ́nh Phật tử Hương Cần tại Phe Chùa vẫn tiến hành như dự
định.
Trại Tất Đạt Đa năm 1963 với sự tham gia của 6 đơn vị Gia
đ́nh Phật Tử 6 làng thuộc xă Hương Cần trải rộng trên một
diện tích hơn năm mẫu đất của cánh đồng lúa vừa mới gặt. Tôi
giữ chức vụ “Sơn Ca”, nghĩa là làm trách nhiệm cầm c̣i canh
gác giờ giấc đời sống trại, điều khiển tổng quát chương
tŕnh sinh hoạt của toàn trại suốt hai ngày hai đêm trên đất
trại với gần 5 trăm trại sinh. Có lẽ trong Ban quản trại,
Sơn Ca là người bận rộn nhất từ khi tập họp dựng lều “Nào
chúng ḿnh ra quây một ṿng hát mà chơi!” cho đến khi hạ lều
“Dây thân ái lan rộng muôn nhà; tay sắp xa nhưng tim không
xa...”.
Đêm rằm trên đồng lúa mênh mông vừa mới gặt chỉ c̣n gốc rạ
lô nhô, trăng đồng quê dịu mềm như sữa mẹ rót xuống ḷng đời
biền biệt không bao giờ khô cạn. Đêm văn nghệ lửa trại c̣n
để lại âm vang tŕu mến trên từng gốc rạ và đống lửa chưa
tàn. Sơn Ca và Ban quản trại là những người không được ngủ
khi chưa nghe hết tiếng ngáy thân thương của các em trong
mỗi cụm lều. Tôi thổi c̣i im lặng, báo giờ ngủ cho toàn trại
nhưng tiếng cười rúc rích “mỗi năm mới có một lần” của các
em trại sinh vẫn lao xao đây đó. Đêm đă khuya, tôi và các
anh chị trong Ban quản trại cố đi quanh dập tắt tiếng cười
tíu tít của các em trong đêm chia tay, nhưng tiếng cười đó
lại chảy vào ḷng ḿnh thân thương và ấm quá! Đêm về sáng.
Tôi và anh Lũy, trại trưởng, vẫn c̣n thức. Trên đường quan
lộ, h́nh như có ai đang về. Tiếng xe đạp dừng lại và anh Đăi,
chú Phẩm, chị Gái... vừa chạy lúp xúp, vừa thở hổn hển báo
tin dữ: “Phật tử bị giết ở đài phát thanh nhiều lắm! Nguy
rồi! Chắc chuyến ni chết hết!” Rồi các anh chị kể lại, không
đầu không đuôi, rằng là các anh chị từ chùa Từ Đàm về, qua
đài phát thanh Huế, nhưng chỉ thấy xe tăng, lính tráng, cảnh
sát đang giành giựt, xô xát nhau với đám đông; rồi ṿi rồng
xịt nước, súng bắn, lựu đạn nổ, máu đổ, người chết... mới
xảy ra hồi 9, 10 giờ tối. Tôi chưa biết ai giết ai nhưng một
cảm giác rúng động chạy dài trong ḍng suy nghĩ. Tôi liên
tưởng đến mội chuổi mắc xích nối kết giữa việc cấm treo cờ
Phật giáo và cuộc bạo động đổ máu vừa xảy ra. Tôi chong mắt
chờ sáng để nghe những tin tức mới. Sáu giờ sáng 9 tháng 5
năm 1963, đài BBC Luân Đôn và tiếp đó, đài VOA loan tin về
cuộc biến động xảy ra trước đài phát thanh Huế. Theo thông
lệ hàng năm, chương tŕnh phát thanh đặc biệt dành cho lễ
Phật Đản được phát thanh vào lúc 8 giờ tối trên làn sóng
điện của đài phát thanh Huế. Nhưng năm nay, chương tŕnh này
không được phát sóng. Quần chúng chờ đợi ở nhà không được
nghe nên đă t́m đến đài phát thanh Huế để biết sự việc. V́
số lượng người khá đông đảo nên thiếu tá Đặng Sĩ, phó tỉnh
trưởng nội an kiêm tiểu khu trưởng tiểu khu Thừa Thiên đă
gọi đó là “đám biểu t́nh” và huy động lực lượng thiết giáp
Bảo an, vũ trang quân cảnh và cảnh sát thành phố Huế tới vây
quanh. Mở đầu là xe ṿi rồng cứu hỏa đến xịt nước giải tán.
Tiếp theo là bắn đạn mă tử, lựu đạn khói, lựu đạn cay được
tung vào. Sau cùng là súng trường, lựu đạn nổ và xe thiết
giáp được sử dụng vào lúc 9 giờ 30 tối. Hậu quả của cuộc
xung đột nầy là máu đă đổ: Tám người thiệt mạng và bốn người
bị thương. Xe thiết giáp cán vỡ đầu một thiếu nhi, một em
nhỏ khác bị cán mất nửa đầu và một em nữa mất hẳn đầu. Măi
đến 2 giờ sáng quần chúng mới giải tán hết khỏi khu vực đài
phát thanh Huế.
Nghe và phối kiểm xong mấy bản tin, tôi trực cảm như có một
đường lạnh băng chạy dài dọc theo xương sống. Tôi nh́n lên
kỳ đài, cờ ngũ sắc của Phật giáo tung bay trong gió sớm. Bầu
trời xanh ngọc bích của quê hương dần dần bị mây mù vây phủ.
Tổ quốc, dân tộc, đạo pháp đang bị đặt trên bàn cân thiên lư.
Lệch một chút sẽ nghiêng trời một phương. Lạy trời có được
một bàn tay tạo hóa cầm cân cho vững...!
Tôi thổi c̣i báo thức muốn không nổi. Tin “Phật giáo bị đàn
áp” loan đi rất nhanh. Sáng sớm, tôi cầm c̣i đứng giữa ṿng
tập họp chung với dáng sững sờ như lau sậy. Các anh chị
trưởng cúi đầu, các em mắt đỏ hoe, rất nhiều em quay mặt đi
để khóc. Ban quản trại quyết định nhổ trại. Tôi tập họp đàn,
đội, chúng, trưởng ra lệnh hạ lều và tự nhiên bật khóc. Các
em khóc theo...
Phật giáo tranh đấu
Những biến cố trong mùa Phật Đản năm 1963 đă châm ng̣i cho
ngọn lửa âm ỉ có từ thời cựu hoàng Bảo Đại, khi Đạo dụ số 10
do ông kư ra đời từ ngày 6-8-1950 quy định Phật giáo theo
quy chế hiệp hội trong khi Thiên Chúa giáo không bị khống
chế bởi sắc lệnh nầy. Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm truất phế vua
Bảo Đại năm 1955, ban hành hiến pháp và luật pháp mới, nhưng
vẫn tiếp tục duy tŕ Đạo dụ số 10 nói trên. Năm 1957, chính
quyền lại ra lệnh loại bỏ ngày lễ Phật Đản ra khỏi ngày nghỉ
chính thức trong năm đă gây nhiều bất măn trong giới Phật
giáo... Những năm tiếp theo có nhiều xung đột giữa chính
quyền và sư sải, Phật tử tại nhiều tỉnh như Huế, Quảng Nam,
Sài G̣n, Cần Thơ, Biên Ḥa… v́ cách đối xử “nhất biên trọng,
nhất biên khinh” so với tôn giáo khác. Và ngọn lửa đó đă
cháy bùng với lệnh cấm treo cờ Phật giáo và biến cố Đài phát
thanh Huế.
Là một huynh trưởng miệt đồng, giữ chức vụ liên đoàn trưởng
Gia đ́nh Phật tử trong thời kỳ sôi động nhất của lịch sử
Phật giáo Việt Nam (từ 1962 đến năm 1968), tôi thường phải ở
thế “vận dụng và sáng tạo” trong sinh hoạt sao cho phù hợp
với khuôn khổ của GĐPT, áp dụng tại địa phương ḿnh. Tuy
không chủ động phát khởi chuyện ǵ mới, thế nhưng khi cần,
tôi vẫn “cứng đầu” bảo vệ và đứng vững một cách xác quyết
với điều ḿnh đă suy nghĩ và cho là đúng. Tuy một con én
không làm nổi mùa xuân, nhưng con én sẽ làm đẹp bầu trời
phảng phất hương Xuân.
Hôm sau, cùng với một số anh chị em huynh trưởng từ các làng
Vân Cù, Hương Cần, Nam Thanh, Cổ Lăo, tôi đạp xe từ làng lên
phố. Thành phố Huế mang một bộ mặt khác lạ. Lính tráng và xe
thiết giáp, xe lội nước tập trung trước tiểu khu. Khắp thành
phố có những toán quân nhân và cảnh sát vũ trang mang súng
tiểu liên và súng gắn lưỡi lê, lựu đạn cay túc trực khắp các
ngă đường. Chúng tôi lên chùa Từ Đàm. Đă có rất nhiều người
đứng ở sân chùa và quanh các con đường kế cận. Bầu không khí
của chùa khác hẳn vẻ êm đềm và tĩnh lặng mọi khi. Một sự
căng thẳng vô h́nh đang chờ đợi. Tôi ghé vào văn pḥng Ban
Hướng dẫn GĐPT Thừa Thiên bên phải khuôn viên chùa Từ Đàm.
Các anh chị trưởng Nguyễn Khắc Từ, Mai Đ́nh Nam, Đặng Ngọc
Lựu, Phan Văn Gái (hiện đang ở Sacramento), Hoàng Thị Kim
Cúc... trông có vẻ khác hẳn. Dáng tươi mát, hồn nhiên, đùa
vui thường nhật được thay bằng vẻ bơ phờ và căng thẳng. Các
anh chị đăm chiêu, ít nói và kiên nhẫn đợi chờ... Số Phật tử
và huynh trưởng ghé vào văn pḥng Ban hướng dẫn mỗi lúc một
đông. Anh Từ, trưởng ban hướng dẫn, dặn ḍ vắn tắt: “Các em
về chùa, đợi lệnh quư Thầy!”
Sau biến cố đài Phát thanh Huế, chiếc cầu đối thoại giữa
chính quyền và giới lănh đạo Phật giáo dường như từ từ bị
nhận ch́m dưới làn nước trong suốt của sông Hương. Hai bên
đang đứng hai phía đầu cầu, đều có thể nh́n thấy nhau, nh́n
thấy chiếc cầu hiện hữu, như có như không, nên không thể qua
cầu gặp nhau. Có nói vẫn không nghe, có nh́n vẫn không thấy.
Phía chính quyền th́ chỉ muốn đơn giản hóa vấn đề bằng cách
đổ lỗi và chụp mũ “Việt Cộng phá hoại” để trấn áp phong trào
Phật giáo bằng vũ lực. Phía Phật giáo th́ đ̣i hỏi chính
quyền phải giải quyết rạch ṛi, đen trắng phân minh; không
phải để “bắt đền” sự mất mát đêm rằm tháng tư tại đài phát
thanh Huế mà để mưu cầu một thế đứng b́nh đẳng tôn giáo lâu
dài trong ḷng dân tộc. Thế nhưng, cùng nói và viết tiếng
Việt Nam mà hai bên lại dùng hai ngôn ngữ khác nhau: Ngôn
ngữ phủ quyết về phía cầm quyền và ngôn ngữ xác quyết về
phía đ̣i hỏi. Phong trào tranh đấu Phật giáo bùng nổ từ Huế,
rồi lan dần ra khắp nước. Cuộc “thư hùng không binh lửa” kéo
dài cho đến khi tổng thống Ngô Đ́nh Diệm bị quân nhân đảo
chánh và hạ sát vào cuối năm 1963!
Đúng 40 năm sau ngày biến cố, khối quần chúng xuống đường,
lên đường, chận đường, mở đường, phá đường... nay đă vắng
mặt thiên thu hay c̣n hiện diện với mái tóc hoa râm. C̣n ai
nhớ và ai quên một thời băo nổi đó?!
***
Suốt cả tháng 5-1963, nhân mùa nghỉ Hè, tôi có dịp lên về
chùa Từ Đàm, nơi được coi như là trung tâm chỉ đạo cho phong
trào Phật giáo tranh đấu. Với chiếc xe đạp lọc cọc lên Huế
về làng, tôi cảm thấy cuốc xe không vất vả bằng bộ áo quần
mặc trong người. Mặc đồng phục GĐPT th́ cứ e sợ sẽ không an
toàn lúc đi đường; mà mặc đồ thường lên chùa Từ Đàm lại có
cảm giác như ḿnh là “con cháu ngoại”.
Sau nhiều tuyên ngôn và thông cáo xác định cuộc đấu tranh
đ̣i b́nh đẳng tôn giáo và phương thức tranh đấu bất bạo động
theo tinh thần thánh Gandhi, sự đối thoại giữa giới lănh đạo
Phật giáo và chính quyền có khuynh hướng đi vào ngơ cụt v́
chỉ có “h́nh” mà không có “thức” nên thiếu mất đi một mẫu số
chung làm căn bản.
Một ngày trước, các GĐPT được thông báo là sẽ có một cuộc
tuyệt thực của tăng ni toàn quốc trong 48 tiếng đồng hồ kể
từ 14 giờ ngày 30-5-1963 để đ̣i hỏi chính quyền giải quyết 5
nguyện vọng ghi trong Tuyên Ngôn ngày 10-5-1963 đă được ủy
ban Bảo vệ Phật giáo gửi lên Tổng thống và Chính phủ. Huynh
trưởng và đoàn sinh GĐPT miệt đồng xa thành phố như chúng
tôi được Ban hướng dẫn khuyến khích ở lại tại chùa địa
phương ḿnh, gióng chuông u minh và thành tâm cầu nguyện cho
đạo pháp được thoát nạn kỳ thị và dân tộc trường tồn. Nếu bị
đàn áp th́ không t́m cách chống cự mà phải nhất loạt ngồi
xuống xếp bàn tại chỗ và chấp tay niệm Phật. Chúng tôi cũng
được khuyến khích là tại mỗi chùa nên treo một biểu ngữ ghi
nội dung một trong 5 nguyện vọng của Tuyên Ngôn đă gửi lên
chính quyền. Suốt đêm tôi và ban huynh trưởng cùng các đoàn
sinh ngành thiếu lo cắt dán, xếp chữ để hoàn thành tấm biểu
ngữ dài trước khi trời sáng. Chúng tôi chọn Điều 4 của Tuyên
Ngôn làm biểu ngữ với nội dung:
“Yêu cầu chính quyền cho tăng ni và tín đồ Phật giáo được tự
do truyền đạo và hành đạo”.
Biểu ngữ nền vàng chữ đỏ được treo lên trước cổng chùa lúc
quá nửa khuya. Khoảng 6 giờ sáng, khi ban huynh trưởng chúng
tôi và các em thiếu nam đang c̣n ngồi dựa vai nhau lơ mơ ngủ
gật ở trong chùa th́ có tiếng chân chạy rầm rập bên ngoài và
tiếng đập cửa hỗn loạn. Tiếp theo là tiếng kêu ra lệnh:
- Bọn làm loạn mô rồi ra đầu thú mau lên không thôi ta đập
bể đầu!
Tôi vừa mở cửa tiền đường của chùa, các anh dân vệ xă mang
súng ống đă ập vào. Tôi đứng dậy và lễ phép trả lời:
- Dạ, có tôi đây. Tôi là liên đoàn trưởng chịu trách nhiệm
mọi việc.
Một anh cầm cái biểu ngữ treo trước cổng chùa đă bị xé toang
quất vào ḿnh tôi, hỏi đầy vẻ hăm dọa:
- Có phải mi là thằng làm cái băng “chó chết” ni không hả?
Tôi nhận:
- Dạ tôi làm.
Anh ta làm cử chỉ như muốn đánh vào đầu tôi nhưng bên ngoài
đă có tiếng can, nghe quen quen như tiếng ông ấp trưởng:
- Ê anh em, đừng đập đánh sinh chuyện lôi thôi. Cứ trói cổ
lại, giải về xă là yên chuyện.
Lập tức tôi bị trói tay lại đằng sau bằng giây mây đă thủ
sẵn. Tôi cố ngồi bệt xuống niệm Phật nhưng bị lôi đứng dậy
và kéo ra khỏi chùa. Anh liên đoàn phó cũng bị trói c̣n các
em khác vừa la khóc vừa chạy tán loạn.
Tôi bị áp giải vừa đi vừa chạy bộ về xă Hương Cần. Tôi ngoan
ngoăn đi theo toán người dẫn độ, không dám ngoái lại nh́n
theo sau để xem c̣n có ai nữa không. Đi chưa được nửa đường,
tôi phải nh́n lui v́ có tiếng ai rất quen vừa la hét, vừa
van xin, cố chạy tới phía trước để bắt gặp tôi. Tôi sững
người, chao đảo cả toàn thân. Th́ ra mẹ tôi! Mẹ với đầu tóc
chưa kịp bối, quần đen ống xăng ống xả, nhào tới ôm chầm lấy
tôi, vừa khóc vừa van xin, vừa quỳ xuống giữa con đường đất
mấp mô sỏi đá c̣n ướt sương. Mẹ tôi ôm chân tôi khóc nức nở:
- Con ơi là con! Mạ đây ń. Con làm chi mà ra thân thè nông
nổi như ri!
Toán người áp giải cố hất mẹ tôi ra đang cản đường tiến tới.
Mẹ tôi day qua hết người này đến người nọ, lạy dài, năn nỉ
như tế sao:
- Tui lạy mấy chú, tha cho con tui. Thằng con tui to đầu rồi
mà c̣n dại dột. Xin mấy chú cho tui lănh về để dạy...
Toán người dừng lại. Ông ấp trưởng tiến lên, chỉ vào mặt mẹ
tôi:
- Hừ! Dân học thức đậu “đít lôm”, tú tài rồi mà dại! Dại
kiểu chi mà dám làm loạn chống chính quyền đă chớ!
Ở làng thuở đó ít người được lên Huế học nên tôi được coi
như “kẻ sĩ”. Người dân làng rất hiếu học nên tinh thần
“trọng sĩ” vẫn c̣n. Có lẽ v́ thế mà ông ta chưa thoá mạ nặng
lời đối với tôi. Tôi trở thành câm nín đóng băng v́ sự xuất
hiện quá đột ngột của mẹ tôi. Sự thô bạo từ bên ngoài không
c̣n gây cho tôi một phản ứng tâm lư nào cả khi thấy Mẹ tôi
la khóc nằm dài giữa đường, tóc trộn với đất bùn cản lối
không cho đi. Người ta có thể đối đầu một mất một c̣n với
gian tà và bạo lực nhưng phải tự trói tay, bịt miệng và nhắm
mắt trước t́nh thương. Bạo lực là nhận và trả; nhưng t́nh
thương th́ chỉ có cho và thấm. Có khi chỉ một thoáng chốc
nhưng lại thấm tận đáy tâm hồn cho hết một đời sau.
Ông ấp trưởng ra lệnh cho một người trong nhóm:
- Cả hết đứng đó. Chú Quyền chạy trước về tŕnh xă.
Tôi không c̣n nhớ bao lâu sau đó, nhưng chỉ nhớ người đến mở
trói cho tôi là thiếu úy Đỗ, người bạn học chung lớp Anh Văn
với tôi tại Hội Việt Mỹ Huế trong những năm qua. Anh ta đang
là sĩ quan chi khu của Quận. Đỗ nh́n tôi với vẻ mặt lạnh
lùng nhưng tôi đọc được chút t́nh cảm vẫn c̣n đọng lại trên
tia nh́n ấm áp cố làm ra vẻ xa lạ của anh. Chúng tôi là
“partners” sát cánh nhau trong những đợt thi đua hùng biện
Anh Ngữ do trung tâm Văn Hóa Hoa Kỳ tổ chức mà cả hai chúng
tôi đều chiếm giải. Đỗ không nói lời nào với tôi mà chỉ trao
đổi to nhỏ với ông xă trưởng và ấp trưởng.
Ông xă trưởng ban lệnh “ân xá” bằng cách nói oang oang, dằn
mặt, không cần biết tôi có nghe hay không nhưng lại muốn mọi
người cùng nghe:
- Làm sai lần đầu, chính quyền khoan hồng tạm tha. Lần sau
tái phạm là tù mọt gông nghe chưa!
Rồi ông day qua phía mẹ tôi, hoa tay điểm mặt, lên giọng răn
đe mẹ tôi phải biết giáo huấn con cái thế nầy thế nọ... Giữa
đám đông người làng trên xă dưới lố nhố, mẹ tôi đứng dậy bối
lại tóc. Mẹ lấy tay áo chùi nước mắt. Như một gốc tre già
chỗi lên từ ḷng đất, dáng vẻ sợ sệt của bà mẹ quê biến đâu
mất, mẹ tôi không chỉ nói với ông xă trưởng, ông ấp trưởng
mà nói với cả bàng dân thiên hạ, bằng một giọng rắn rỏi pha
nét tự hào mà suốt cả thời trẻ thơ tôi chưa bao giờ nghe
thấy:
- Dạ cám ơn xă, cám ơn huyện, cám ơn thôn thả con tui ra.
Xin lỗi, ông khỏi dạy dỗ tui. Con tui ăn học đàng hoàng,
chưa trộm trâu đốt nhà của ai hết. Hắn là học tṛ trường Đạo
nên kính Chúa trọng Phật như nhau, biết chuyện phải trái mà
theo. Mấy ông trên ở không kỷ cang dưới mới lập đàn mây mưa...
Như cảm nhận được hơi nóng từ trong giọng nói của một bà mẹ
quê liều lĩnh và bất chấp để bảo vệ cho con ḿnh, ông xă
trưởng nói gạt ngang:
- Thôi dẹp! Về hết đi...
Là con trai út trong gia đ́nh 6 anh chị em, cha mất sớm, nên
dù ở bất cứ tuổi nào tôi cũng luôn luôn bị mẹ và các anh chị
đối xử như đứa bé trong chiếc nôi yêu dấu của gia đ́nh. Đôi
khi bất măn, tôi cũng muốn vùng lên tranh đấu giành quyền
sống, nhưng t́nh thương gia đ́nh “dày đặc” quá, làm tôi mất
hết cơ hội đạt thắng lợi sau cùng. Bởi vậy, tôi bị gia đ́nh
bắt vào Sài G̣n “học Hè”!
Rời Huế về phi trường Phú Bài vào buổi trưa ngày 1-6-1963,
tôi phải đi qua cầu Bạch Hổ v́ ngă Trường Tiền đă bị phong
tỏa. Một cuộc biểu t́nh và tuyệt thực lớn mà sinh viên và
học sinh Huế tham gia đông đảo đang diễn ra. Ra đi, giao
trách nhiệm GĐPT lại cho anh liên đoàn phó và nh́n về phía
bạn bè xuôi ngược, tôi có cảm tưởng như ḿnh đang phụ ḷng
anh em, phụ t́nh với Huế.
Đến Sài G̣n, tôi ở lại nhà bà chị cả của tôi trên đường Cao
Thắng. Không khí đường phố Sài G̣n tuy cũng phảng phất khí
thế pḥng ngự và xuống đường nhưng không căng thẳng như ở
Huế. Bù lại, trận giặc báo chí thủ đô lại rất sôi động về
nguồn thông tin sự đối đầu quyết liệt giữa chính quyền và
Phật giáo. Hai chùa Ấn Quang và Xá Lợi đang trở thành hai
trọng điểm của phong trào Phật giáo đấu tranh. Hàng ngày,
những bài thuyết pháp với nội dung và ngôn từ đ̣i hỏi sự
b́nh đẳng và tự do tôn giáo, đầy tính đấu tranh không khoan
nhượng, do quư Thầy luân phiên xuất hiện thu hút quần chúng
Phật tử đến theo dơi đứng chật lớp trong, lớp ngoài. Tôi
“học Hè” ở chùa nhiều hơn là học chữ! Cho đến một hôm, đúng
10 ngày sau khi đến Sài G̣n, khoảng gần trưa, cháu Vấn kêu
tôi bằng cậu, ở đâu chạy về báo tin:
- Cậu ơi cậu! Thầy tu biểu t́nh gần nhà ḿnh. Cậu ra coi mau,
lần nầy ngộ lắm!
Tôi theo chân đứa cháu, tất tả chạy về phía ngă tư đường
Phan Đ́nh Phùng và Lê Văn Duyệt. Trong ánh nắng miền Nam
chói chang, từ sau hàng rào của lớp người đứng trước, tôi có
thể nh́n thấy khói đen bốc lên. Mùi khét của xăng dầu và da
thịt thoảng đến khi làn gió thổi ngược về phía ḿnh. Tôi cố
chen vào phía trước để nh́n cho rơ việc ǵ đang xẩy ra. Giữa
ngă tư đường phố, một nấm lửa đang bùng lên. Khi ngọn gió
tạt qua tôi nh́n thấy một dáng người đen thui đang ngồi thế
xếp bàn như một tượng Phật bằng đồng đen. Những cơn gió nhẹ
cứ tạt qua tạt lại và bức tượng đồng đen chập chờn ẩn hiện
trong rừng lửa sắp lụi tàn. Bức tượng rung rinh, chao đảo và
ngă xuống mặt đường. Một xác thân người trọn vẹn hiện ra
trong ánh lửa chỉ c̣n là vầng khói mịt mù. Đứng bao xung
quanh là các Thầy mặc áo vàng đang cầu nguyện. Có tiếng loa
cầm tay đang đọc hay thông báo điều ǵ tôi không nghe rơ.
C̣i xe cảnh sát rộ lên từng hồi khẩn cấp. Đứa cháu kéo tay
tôi chạy theo đám đông rần rộ tản ra khắp các con đường.
Từng mảng âm thanh đây đó ch́m trong biển âm thanh của tiếng
kêu , tiếng khóc, tiếng người sững sờ, hốt hoảng hỏi nhau về
sự cố đang diễn ra trước mắt và cũng là lần đầu tiên trong
đời họ được thấy tận mắt h́nh ảnh Tự Thiêu. Như một bài toán
chưa có lời giải, những lời vang vọng hay th́ thào: “Thầy tu
tự thiêu” chưa mang đến một khái niệm nào rơ ràng trong đầu
tôi cả. Tất cả h́nh ảnh bi tráng trước mắt tôi đều mới quá,
lạ quá, bi thương, hào hùng và nghiêm trọng quá! Nhưng phản
ứng tâm sinh lư tức thời là sự cảm xúc rất mănh liệt chế ngự
và cuốn hút cả tinh thần lẫn thể chất trào dâng trong tôi.
Trời nắng buổi trưa, mồ hôi đổ đầm đ́a mà cái lạnh vô h́nh
từ bên trong vẫn quấn quyện lấy tôi. Cả một buổi chiều và
suốt đêm sau đó, h́nh tượng ngọn lửa vần vũ bao phủ thân xác
đồng đen cứ chờn vờn hiện ra như có, như không trước mắt.
Ngay chiều hôm đó, tôi chen chân đến chùa Xá Lợi, nơi đang
để di thể cùa ngài Quảng Đức nhưng làn sóng người đổ xô đến
đó đă tràn ngập, cảnh sát chận đường không cho vào. Măi đến
sáng hôm sau, đọc tin tường thuật về vụ tự thiêu tôi mới
biết được thân thế của Ḥa thượng Thích Quảng Đức và ư nghĩa
cao cả của việc tự nguyện đem thân ḿnh làm đuốc để soi sáng
lương tri và thức tỉnh lương tâm của thế lực đương quyền.
Tin một nhà sư Phật giáo tự thiêu giữa ban ngày trên một ngă
tư đường phố đông đúc tại Sài g̣n đă làm xúc động dư luận
thế giới.
Bên cạnh những người trải qua quá tŕnh tranh đấu cho nhân
quyền đă bày tỏ sự ủng hộ cuộc đấu tranh của Phật giáo một
cách nhiệt t́nh, những nhà đạo đức xă hội tôn giáo
(socio-religious moralists) phương Tây, nhất là Hoa Kỳ, đặt
vấn đề tự thiêu có phải là “sát sanh” hay “tự thân bạo động”
đi ngược với tinh thần Phật giáo là bất sát sanh (Ahimsa) và
bất bạo động (Non-violence) không? Câu hỏi đă đuợc nhiều nhà
nghiên cứu sử học, xă hội học, và tôn giáo học như Robert J.
Topmiller, Douglas Pike, Danielle Berrigan, Martin Luther
King… chỉ rơ rằng, tự thiêu (self-immolation) và tự ép xác
(self-mummification) … tự hiến dâng cái thân tứ đại giả tạm
của đời người cho những mục đích cầu nguyện, vị tha, tế độ
cao vời là một sự hành đạo khá phổ biến trong giới tăng già
Phật giáo có từ thời xa xưa ở Ấn Độ và Trung Hoa. Đó không
phải là h́nh thức tự sát hay tự tử; “tự thân bạo động” hay
chối bỏ cuộc sống theo khái niệm đời thường mà đây là một
chí nguyện dâng hiến tấm thân của ḿnh cho đại cuộc hoàn
toàn tự giác và giác tha. Robert J. Topmiller c̣n đi xa hơn
trong việc so sánh h́nh ảnh tự thiêu để thắp sáng lương tâm
con người với h́nh ảnh Đức Chúa Jesus chịu đóng đinh trên
thập tự giá để chuộc tội cho loài người đều là mang tính cao
cả của sự quên ḿnh v́ người.
Vụ tự thiêu của ngài Quảng Đức là tiếng vọng hải triều làm
chấn động ḷng người. Đó là một thông điệp vũ băo và quyết
liệt nhất, xác định sự dấn thân không lùi bước của người
Phật tử trong tiến tŕnh đấu tranh cho quyền tự do và công
bằng tôn giáo. Mọi người nín thở chờ phản ứng của cả hai bên.
Năm ngày sau vụ tự thiêu, Thông Cáo Chung của Ủy Ban Liên
Phái Bảo Vệ Phật Giáo và Ủy Ban Liên Bộ của chính quyền được
kư kết với chữ kư khán duyệt của ḥa thượng Thích Tịnh Khiết
và tổng thống Ngô Đ́nh Diệm. Đây có thể được xem như là văn
kiện quan trọng nhất trong quá tŕnh thương thuyết giữa hai
bên. Nhưng lịch sử cổ kim đă chứng minh rằng, trên vũ đài
chính trị, trong bất kỳ cuộc tương tranh nào, những văn bản
hay ngôn ước hứa hẹn đơn phương hay song phương chỉ được
thực thi khi hai bên đều có bạo lực tương đương để khống chế
nhau. Có vẻ như Thông Cáo Chung trở thành một viên thuốc an
thần cho cơn sốt thời cuộc, không được bên có ưu thế của
quyền lực chính trị và quân đội trong tay thi hành nghiêm
chỉnh. Ngược lại những chuổi xung đột giữa các viên chức
chính quyền và khối quần chúng Phật tử ngày một trầm trọng.
Cường độ và quy mô của cuộc đấu tranh bất bạo động của Phật
giáo và phản ứng chống đấu tranh bằng phương tiện bạo động
của chính quyền càng ngày càng leo thang làm cho “Thông Cáo
Chung” càng ngày càng trở thành một văn kiện đầy mĩa mai và
quá xa vời với thực tế!
Đầu tháng 7-63 tôi trở về Huế để chuẩn bị cho năm học mới.
Cả thành phố Huế đang ở giữa cơn sốt thường xuyên của phong
trào tranh đấu Phật giáo và nỗ lực dùng vũ lực để khống chế
các cuộc biểu t́nh xuống đường của chính quyền đương nhiệm.
Chùa Từ Đàm và Diệu Đế trở thành hai trọng điểm của phong
trào Phật giáo đấu tranh tại Huế rất giống với hai chùa Ấn
Quang và Xá Lợi tại Sài G̣n.
Tôi học lớp đệ nhị trường Quốc Học Huế. Không khí băi khóa,
xuống đường như thường xuyên treo lơ lững trong hai trường
Quốc Học và Đồng Khánh. Đây là hai trường “làm anh, làm ả”
của Huế, nên hầu như sự khởi xướng các cuộc băi khóa của
sinh viên và học sinh Huế đều xuất phát từ trường Luật và
trường Quốc Học. V́ t́nh h́nh ngày học ngày không, tôi rời
nhà trọ ở đường Lê Đ́nh Dương để về ở làng. Mỗi buổi sáng,
buổi chiều đạp xe lỏn tỏn từ làng lên Huế và từ Huế về làng,
bao giờ mẹ tôi cũng dặn ḍ: “Tên con nằm trong sổ đen của họ
rồi, chừ như con cá trên thớt. Con thương mạ th́ nghe lời mạ,
đừng có hăng quá mà bị bỏ bao bố liệng xuống rào (sông) khổ
thân con ơi!” Rồi mẹ tôi lập đi lập lại cái nghệ thuật xử
thế khôn ngoan của người dân quê chỉ muốn yên thân sau lũy
tre xanh:
Cây cao gió dật gió dờ,
Chẳng bằng cây thấp gió đưa dịu dàng.
Tôi chỉ muốn làm “cây thấp”, nhưng thấp tới mức nào th́
chẳng ai có thước càn khôn mà đo giùm cho tôi cả.
Tháng 8-63 bầu không khí thành phố Huế trở nên sôi động và
căng thẳng hơn bao giờ hết với những cuộc biểu t́nh, xuống
đường, tuyệt thực, đ́nh công, băi khóa, băi thị, đàn áp xẩy
ra liên tục. Sự yên tĩnh của những ngôi chùa làng quanh Huế
vốn đang dao động theo nhịp đập của Từ Đàm và Diệu Đế bỗng
chao đảo rúng động với tin tự thiêu của sa di Thanh Tuệ ở
chùa Phước Duyên và ngọn lửa của Ḥa thượng Thích Tiêu Diêu
bùng lên ngay trên sân chùa Từ Đàm. Những huynh trưởng Gia
đ́nh Phật tử miệt đồng chúng tôi kết đoàn gần nhau lại, dáo
dác t́m nhau tự hỏi: “Phải làm ǵ để bày tỏ thái độ cụ thể
tiếp tay với cuộc đấu tranh chung?!” Trong hoàn cảnh xóm
làng xa xôi và chùa làng cô quạnh mà một tiếng gà gáy lên
xóm trên chưa dứt, xóm dưới đă nghe, mọi sự động tĩnh đụng
chạm đến chính quyền sẽ bị “cuốn theo chiều gió” như đám lá
tre khô vương văi ở đầu làng. V́ hầu hết huynh trưởng và
đoàn sinh bận công việc đồng áng suốt ngày nên các GĐPT ở
làng phải sinh hoạt vào mỗi tối thứ bảy. Gặp những đêm không
trăng, những buổi họp đoàn soi mặt nhau dưới ánh đèn gió vật
vờ làm phảng phất một vẻ tôn nghiêm và kỳ bí lạ lùng. Nghe
tường thuật các vụ tự thiêu, các em oanh vũ thường khóc thút
thít và đă có em lên tiếng thơ ngây, nghĩ đến chuyện tự
thiêu tập thể như một cuộc du ngoạn vào chốn thần tiên: “Hay
ḿnh cầm tay giây thân ái quanh đụn rơm, rồi quăng hết đèn
gió vô trong đó cho đến khi lửa cháy hết với ḿnh...” Tôi
nghĩ đến những cuộc thánh chiến, nghĩ đến những ngọn lửa
trong tim, những ngọn lửa trong cuộc đời thường. Một phần
lịch sử nhân loại đă bị thiêu hủy không phải bằng ngọn lửa
đời thường mà bằng biển lửa trong tim. Dập tắt những kinh
thành đang bốc lửa khó mà dễ. Nhưng dập tắt những ngọn lửa
trong tim mới là khó. Trên bề mặt phẳng lặng, những ngọn lửa
trong tim đang cháy...
Ngày 21-8-63, chính quyền đă “tổng dập tắt” biển lửa đấu
tranh của phong trào Phật giáo trong toàn quốc bằng tất cả
sức mạnh vũ băo quyết liệt nhất mang tên là “chiến dịch Nước
Lũ”. Những cứ điểm cuối cùng của Ấn Quang, Xá Lợi, Từ Đàm,
Diệu Đế đều bị quét sạch tan hoang. Tất cả tăng, ni, Phật tử
bị t́nh nghi là có tham gia phong trào đấu tranh đều bị bắt
giam không cần bằng chứng, trát ṭa hay sơ vấn. Buổi chiều
hôm sau, khi tôi đang ngồi học bài ở hậu liêu của nhà thờ họ
Trần, mẹ tôi chui qua hàng tre và hốt hoảng báo tin: “Thằng
Thọ bị bắt rồi! Chừ họ đang t́m con...” Thọ là liên đoàn phó
GĐPT của tôi. Mẹ tôi cầm tay tôi lôi đi trốn. Chạy băng qua
mấy hàng tre thưa từ xóm Kên, qua xóm Giữa, xóm Cụt, xóm Bàu
lên khu Mă Vôi là nơi có mộ Ba tôi đang nằm ở đó. Lúa mùa
tháng Tám sắp chín. Cả đồng lúa trĩu bông là nơi ẩn nấp tạm
thời khá an toàn v́ đồng ruộng mênh mông và hoang vắng ít
người để ư. Mẹ tôi và tôi ḅ sát giữa bờ đất giữ nước của
đồng lúa. Bức trường thành ngút ngàn ruộng lúa che khuất hai
mẹ con. Lên tới Mă Vôi, tôi kiếm chỗ nấp sau b́nh phong của
lăng mộ. Mẹ tôi ḅ về lại để chờ trời tối bới cơm lên cho
tôi. Mẹ đi chưa tàn điếu thuốc, hướng về phía làng, tôi đă
thấy bóng người lố nhố từ sau dăy tre làng băng đồng tiến
tới. Tôi hốt hoảng rời vùng lăng mộ, vừa chạy lúp xúp vừa ḅ
về phía Bàu Tháp. Nhưng mấy con đường ṃn lơ thơ đă bị khóa
chặt. Tôi bị đón đường. Ngoài ông ấp trưởng và mấy anh dân
vệ c̣n có thêm một khuôn mặt khác, đó là bác Thỏa ở làng kế
cận. Tôi chỉ biết lờ mờ là bác ta làm ǵ đó ở bên huyện, bên
tỉnh nhưng không biết giữ chức vụ ǵ, người làng tôi gọi bác
là “mật vụ” nhưng thuở đó tôi không để ư nên chưa có khái
niệm ǵ rơ ràng về cái nghề “mật vụ” lạ hoắc đó cả. Lần nầy
tôi không bị trói như lần trước mả chỉ bị bi hai anh dân vệ
xốc nách kéo đi.
Khi đến đường cái th́ đă có một chiếc xe Land Rover màu xanh
rêu bịt bùng chờ ở đó. Xe mở cửa sau nhưng thấy tối om, sợ
quá tôi không dám lên. Dùng dằng rồi cũng bị đẩy vào. Bên
trong chỉ có bác Thỏa và tôi. Bác Thỏa là người làng lân cận,
nghe nói là làm việc “bên tỉnh”. Bác có 3 đứa con học bậc
Trung học ở Huế thường cuối tuần lên về chung chuyến xe đ̣
với tôi nên quen. Tôi không rơ là bác Thỏa có biết tôi không
hay tảng lờ coi như không biết để dễ làm việc.
Vừa rướn người vào được trong xe, lập tức cánh cửa sau xe
đóng sầm lại. Bác thỏa nhanh như kiếm sĩ, rút cây roi để sẵn
trong xe, chẳng nói chẳng rằng quất mạnh vào lưng tôi. Ngọn
roi mềm quấn qua lưng qua bụng và bác Thỏa rút mạnh, tôi ngă
lăn nằm úp mặt lên sàn xe. Một loáng sau tôi mới có cảm giác
đau đến tê dại như bị cắt từng mảnh da thịt sau lưng. Tôi
quằn quại uốn ḿnh trong cái đau như con giun bị chắn đầu.
Bác Thỏa nạt như sấm:
- Nằm im! Mi ngo ngoe là chết liền!
Tôi sợ quá nhưng tiếng rên vẫn cứ bật ra khỏi miệng. Đường
lên Huyện toàn ổ gà to như cái nón. Tôi nằm sấp, mặt va vào
sàn xe theo đà lắc lư của ổ gà. Bác Thỏa ngồi đón đầu, hai
chân mang giày và đạp lên hai vai tôi để đè tôi nằm im xuống
sàn xe. Xe chạy được một khoảng, tôi muốn ói v́ mùi phân
trâu và bùn thối từ giày bác Thỏa chảy lên vai lên mặt tôi.
Tôi cố dùng tay đẩy nhè nhẹ đôi chân giày của bác Thỏa ra
khỏi vai để đở bị ngộp thở nhưng bác càng ấn chặt xuống. Nửa
đường, cái sợ biến đâu mất để nhường lại cho cơn giận bốc
lửa của tuổi thanh niên ùa đến. Cơn giận như thuốc súng làm
tôi ngồi bật dậy như cái ḷ xo. Bác Thỏa hốt hoảng vung cây
roi lên nhưng tôi đă nhanh hơn chụp lấy ngọn roi da dài
ngoẵng quấn nhiều ṿng vào bàn tay của ḿnh. Tự biết sức ông
già văn pḥng không cưỡng lại sức thanh niên đồng ruộng nên
bác Thỏa giở giọng cả vú lấp miệng em:
- Ối! Cái thằng khốn nạn. Mi dám làm loạn chống lại tao phải
không?
Tôi cố hét lên rất to cho át tiếng xe gầm rú và để bác Thỏa
nghe cho rơ:
- Thưa bác, tôi không dám chống lại bác, nhưng bác không
được đánh tôi. Nếu bác muốn giết tôi thi giết cho chết c̣n
bác đánh tôi bị thương th́ con Luật, thằng Lệ, thằng Pháp...
đừng có ḥng yên thân đi học với tôi.
Trong ánh sáng mờ gần như tối, tôi có thể đọc được nét sững
sờ của bác Thỏa qua sức kéo của cán roi da lơi dần trong tay
tôi... Tôi có thể hiểu được tâm sự của một người cha, dù ông
ta đang đứng cong ḿnh trên tuyến lửa. Muốn lên Huế học, các
con của bác ấy phải đi qua làng tôi. Bác cũng hiểu đất lề
quê thói. Gây thù hận với làng bác, tôi chỉ cần tránh mặt
không lên chơi. Nhưng gây thù hận với làng tôi, bác và con
cái của Bác chỉ c̣n nước chui xuống sông đi thuyền; từ lỗ
vốn đến trắng tay mà thôi. Tôi ngồi dựa vào thành xe, tay
không rời cuộn giây roi. Bác Thỏa hút thuốc liên tục, trầm
ngâm và lặng lẽ.
Hai năm sau cái lằn roi đầu tiên của bác Thỏa quất lên ḿnh
tôi vẫn c̣n in dấu sau lưng nên các em trong GĐPT thấy và
gọi đùa là “huy chương mật vụ”. Sau nầy tôi mới biết đó là
roi gân ḅ dùng để tra khảo tội phạm.
Suốt hai tuần bị giam ở lô cốt huyện Hương Trà, tôi lấy làm
lạ là chỉ bị kêu lên khai báo lấy lệ có một lần, được ăn cơm
cà-mèng, hút thuốc Ruby Quân tiếp vụ ph́ phà của lính. Mỗi
ngày một buổi đi làm tạp dịch lao động quanh huyện đường.
Rồi đến một hôm, tôi được gọi lên văn pḥng huyện. Người ta
cho biết là cơ quan TK 2(?!) bắt tôi và gửi ở Huyện 10 ngày
nhưng quá hạn 3 ngày rồi mà người của TK2 không ai đến nhận.
Người trưởng văn pḥng hỏi một câu mà tôi cho là “ngây ngô
và dễ thương” nhất trong lịch sử đời ḿnh, rằng là, nếu tôi
muốn về th́ kư giấy để được thả về; c̣n nếu tôi muốn ở lại
th́ nói người nhà bới cơm chứ huyện đă hết khẩu phần cho tôi.
Măi sau nầy tôi mới biết là thuở đó, người mật vụ như bác
Thỏa ưa bắt ai th́ bắt, khỏi cần trát ṭa, án lệnh hay giấy
tờ lôi thôi. Bác chỉ cần ban cho cái nhăn hiệu “phá hoại”
theo bọn biểu t́nh gây rối là đủ cơ sở pháp lư để bắt đi.
Nhưng sau khi xách tôi đem về gửi ở Huyện, bác ấy đi chuyến
khác, không may bị thanh niên làng bên bất măn bao vây đánh
trọng thương, nên quên luôn những “món hàng” đă bốc và kư
gửi tạm thời ở Huyện của bác ta. Măi cho đến nhiều năm sau,
tôi vẫn tự hỏi rằng, nếu bác Thỏa không bị hành hung phải bỏ
dở dang công tác để đi vào bệnh viện; và nếu không có ngày
1-11- 1963 chấm dứt chế độ của tổng thống Ngô Đ́nh Diệm th́
những món hàng của bác Thỏa gửi ở Huyện Hương Trà và thân
phận của tôi sẽ đi về đâu? Tôi sẽ bất công với chế độ Ngô
triều nếu tự kết luận một cách dễ dăi và chủ quan theo sự
suy diễn thường t́nh của tôi. Cũng không sao, đôi khi câu
hỏi tự hàm chứa câu trả lời và im lặng cũng là một cách phát
biểu.
Bốn Mươi Năm Nh́n Lại
Bốn mươi năm đă qua, 1963 – 2003, chân đă quen chạy ṿng
quanh những con đường đất cũ quê ta và đất mới quê người,
tôi vẫn phân vân khi chưa có dịp lắng ḷng quay đầu ngó lại.
Một quăng đời 40 năm: “Một thời dấn thân và một thời bám víu”!
Ngày đó, tôi là một gă trai làng 18 tuổi. Khi suy nghĩ và
cho là đúng, với rất ít lưỡng lự, tôi “lên đường” và sẵn
sàng dấn thân không quản ngại gian nan đang chực chờ đâu đó.
Tuổi trẻ, tôi c̣n cả một con đường dài trước mặt để sẵn sàng
chấp nhận vấp ngă và vịn thời gian mà đứng dậy. Tôi chẳng có
ǵ để bám víu hay sợ hăi nếu chẳng may không c̣n gượng đứng
dậy được. Tôi c̣n nhớ, với một chút khả năng c̣m nói tiếng
Anh Hội Việt Mỹ, tôi vẫn thường được bạn bè đẩy ra làm thông
dịch cho các phái đoàn báo chí ngoại quốc, nhất là Mỹ, nườm
nượp kéo đến Huế vào những năm sáu mươi. Tôi nói đến đất
nước ḿnh với niềm tự hào chất ngất. Nói đến sự bất công xă
hội, thảm trạng chiến tranh, mưu đồ chính trị bằng những ư
nghĩ chân thực phát ra từ trái tim tươi trẻ và suy tư nóng
bỏng của ḿnh, bất chấp sự đụng chạm hay áp lực từ bất cứ
phía nào đến dù không có lợi cho tôi.
Thuở đó, tôi có được những người bạn Mỹ (Jeff Peterson, Doug
Hottester, Peter Downs), bạn Úc (Tom Wilshire), Pháp (Jean
Pierre)... thật khả ái, cách mấy đại dương vẫn c̣n thư từ
qua lại; và những thằng bạn nối khố “trần ai tri kỷ” như
Đặng Văn Tuấn, Đoàn Tuyền Châu, Phạm Túy Linh, Trần Kiên
Nhẫn...
Rồi 40 năm sau, có vẻ như tôi “lớn” hơn, chín chắn, chững
chạc hơn. Nhưng thực ra th́ dù muốn hay không muốn, tôi cũng
chỉ già hơn với cành lá rườm rà, gốc rễ sù ś như cây gỗ gió
trên rừng. Gỗ gió vốn vô tính và vô tâm. May gặp gió ngàn
hương th́ phảng phất dăm ba miếng trầm để lại cho đời mà
không may đứng giữa luồng gió chướng th́ cũng chỉ là tiêu
điều thân gỗ mục. Thời gian c̣n lại th́ quá ít nên tôi chỉ
muốn mọi sự “chắc ăn”, không dám chấp nhận vấp ngă và đứng
dậy. Càng già, tôi lại càng khám phá ra rằng, tôi không dám
to gan để dấn thân vào những nẻo đường đời khai phá. Càng
ngày, tôi càng có nhiều thứ trong đời để bám víu, đề pḥng,
bảo vệ và cất giữ khư khư không dám rủ bỏ. Điều mĩa mai trên
chặng đường 40 năm đó là tuy tôi có 20 năm sống, học hành và
làm việc trên đất Mỹ, tiếp cận với xă hội Hoa Kỳ hàng ngày,
nhưng lại xa Mỹ hơn thời kỳ 40 năm trước khi c̣n ở Huế. Tôi
cũng có nhiều bạn Mỹ nhưng lại vắng bóng những khuôn mặt
“chia sẻ tâm t́nh” như ngày xưa trên quê hương. Tôi có nhiều
người bạn Việt Nam nơi quê người nhưng lại thiếu những thằng
bạn “trần ai tri kỷ” như ngày đó ở quê nhà.
Đă bao lần đứng trước cử tọa nước ngoài hay tŕnh bày tham
luận về văn hóa Việt Nam trên diễn đàn quốc tế, có lẽ tôi đă
“khôn khéo” hơn, lư luận đầy thuyết phục hơn để chinh phục
người nghe, nhưng lại không chinh phục được chính ḿnh. Khi
đem so sánh ḿnh hôm nay với chính ḿnh thời Phật giáo tranh
đấu 1963, tôi mới cảm nhận hết sức bật của ngọn lửa tuổi trẻ
dấn thân đă bớt dần sự xác quyết trong tôi v́ “khôn ngoan”
và... sợ. Sợ không đẹp ḷng nhóm văn hóa nầy, sợ không vui
ḷng nhóm nhân chủng nọ, sợ đụng chạm đến thành phần xă hội
kia, sợ mất quyền lợi. Tôi có quá nhiều trói buộc để giới
hạn tự do, tự co ḿnh trong vỏ ốc. Như một người khách phong
trần:
Vĩnh vi lăng đăng phong trần khách,
Nhật viễn gia hương vạn lư tŕnh.
Càng ngày càng xa quê hương đích thực – nơi có bản ngă uyên
nguyên của ḿnh – hàng vạn dặm như thế. Tôi hôm nay và chú
nhỏ huynh trưởng miệt đồng thời xưa sẽ c̣n bao giờ gặp nhau
hay xa nhau vĩnh viễn?
Nếu chiếc cầu thế hệ chỉ tính trên thời gian năm tháng th́
thế là hết. Tuổi trẻ qua rồi!
Nhưng nếu đo ḍng thời gian bằng cái chân tâm của mỗi người
th́ tôi nghĩ ḿnh vừa may mắn gặp lại chú huynh trưởng miệt
đồng thuở ấy vẫn c̣n gối đất ngủ say nguyên vẹn trong tôi.
Tôi và chú ấy vẫn c̣n t́m về nhau trong niềm an lạc của ánh
đạo vàng. Tôi mĩm cười với chú ấy khi cả hai cùng nghe một
tiếng chuông chùa c̣n vang vọng đâu đây. Tiếng chuông u trầm
nhưng không u uẩn như một thời đồng vọng trong lửa Hạ 63.
Ngày nào c̣n một tiếng chuông đi để mang niềm an lạc trở về,
ngày đó thời gian không phôi pha mà trở thành nụ cười tĩnh
lặng. Bốn mươi năm, nửa cuộc phong trần, có những nỗi buồn
đă hóa kiếp thành vui hay có những niềm vui lấm tấm nỗi buồn.
Hồi chuông lạnh cả hư không vẫn ngân nga kêu gọi phải rủ bỏ
vọng tưởng để trở về với chính ḿnh. Quên ḿnh là lạc đường.
Biết về đâu khi không có nẽo về; khi tiếng chuông vẫn c̣n là
ảo ảnh bâng quơ, lạc loài, chưa dứt!
Trần Kiêm Đoàn
tôn giáo - phật giáo