Trần Kiêm Đoàn
Hoan hỷ là v́ sinh ra kiếp làm người đă khó; lại được nh́n thấy ánh sáng Phật pháp lại càng khó hơn. Một bước cuối đời là được xuất gia Phật đạo để t́m con đường giải thoát là một hồng ân mà trong cuộc sống của một xă hội vừa thực dụng vừa năng động như Hoa Kỳ th́ mộng ước xuất gia đi tu, trong anh em chúng ta, mấy người có được. Tuy nhiên, bên cạnh đó tôi vẫn cảm thấy một nguồn xúc động miên man rất khó bàn, khó nói. Từ trong sâu thẳm của ḷng ḿnh, chắc chắn tôi cũng như hầu hết các đạo hữu và các bạn, là hết ḷng tán thán và khuyến khích chí hướng cao đẹp của một người có tâm tu như anh Phô. Vậy mà khi đối mặt với thực tế đời thường, như nh́n khung cảnh gia đ́nh đầm ấm của anh Phô, chúng tôi lại thấy cảm xúc của ḿnh chùng lại. Chị Phô cũng đang bước lên hàng cao niên và hai cháu con anh Phô đang c̣n là sinh viên đại học, liệu nỗ lực chạy đuổi với vô thường bằng chí nguyện xuất gia của anh Phô có tạo ra một “ngả rẽ” nào nghiêm trọng cho gia đ́nh không và câu hỏi lan ra xa dần với bao nhiêu sự “cộng hưởng ước định” về mặt từ thiện, đạo tràng, cộng đồng, xă hội mà anh Phô đang là một thành viên năng nỗ.
Trước hết, với sự cho phép
của anh Phô, tôi xin được ghi lại nguyên văn:
“Thư Xin Phép Xuất Gia” của anh đă gởi cho các
bậc tôn túc, trưởng thượng, đạo hữu và bằng hữu
và quyến thuộc như sau: Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát Thân kính, Trần Duy Phô
Càng được tiếp cận để suy tư và thực hành nguyên lư đạo Phật, tôi càng trực nhận được một sức mạnh vô h́nh vô ảnh nhưng đầy thuyết phục và sâu lắng tự nguồn tâm cảm rằng: Thế giới hiện tượng này phù du này chẳng có ǵ tồn tại miên viễn mà tất cả chỉ là phương tiện tạm thời để sống, để chết và để đi t́m một chỗ dựa tâm linh, như đi tu chẳng hạn. T́m ra bến bờ cuối cùng của người hành tŕ đạo Phật là tới được sự vắng bặt mọi h́nh tướng phân biệt. Bến Giác sau cùng của người tu Phật là đạt tới tự tánh rỗng lặng uyên nguyên: Không ta, không người, không tan, không trụ trong tinh thần trí tuệ Bát Nhă. Ḿnh và anh Phô biết nhau từ thời Bác Siêu, anh Rạng ở Huế. Đạo Phật của anh em ḿnh là một đạo Phật không Tông môn, Bộ phái - một đạo Phật dung hóa kinh luận và tương tác hài ḥa với vô vàn khe suối và sông biển an ḥa của đạo Phật. Hơn nửa thế kỷ qua, đạo Phật chính là một cuộc đời lạc quan, lương thiện và thấm đậm t́nh người. Ḿnh đă ứng dụng Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo và Mười Hai Nhân Duyên - tinh hoa của đạo Phật - qua lời dạy của quư Ôn; không lư thuyết cao xa, không triết lư đại ngàn khiên cưỡng. Hạnh phúc biết bao khi đi quanh những xóm nghèo, trút những hũ gạo t́nh thương từ thiện, đổ vào hai cái bị lát của bác Siêu gắn trên chiếc xe đạp giàn cũ kỹ muôn thuở của bác và chắp tay niệm “A Di Đà Phật” với một niềm tin son sắt là chiều nay, sớm mai hay mốt nọ sẽ có những bà mẹ nghèo được ăn thêm chén cơm trắng mà mớm sữa cho con. Lịch sử đất nước thăng trầm kéo theo lịch sử khi lở, khi bồi của Huế. Rồi anh em ḿnh xa Huế và có duyên gặp nhau ở Hoa Kỳ, thành phố Sacramento. Ḿnh quư anh Phô bởi anh đă đi qua những chặng đường gian lao và cay đắng nhất của một người đàn ông Việt Nam điển h́nh trong thế hệ chiến tranh Việt Nam. Anh đă bày tỏ ḷng yêu nước thương dân bằng những công tác từ thiện với nhóm từ thiện “BÁC SIÊU” góp gạo giúp người nghèo đỡ đói trong bao nhiêu năm. Anh cũng đă lên đường gia nhập quân đội khi thế cuộc đang cần và đă trở thành một sỹ quan của quân đội Việt Nam Cộng Ḥa. Anh đến Mỹ theo diện “H.O” trong một lứa tuổi đă tương đối muộn màng về mọi phương diện. Nhưng anh đă cố gắng vươn lên: vươn lên trên đường đời và vươn lên trong đường đạo. Trên đường đời, giữa một xă hội Phương Tây hoàn toàn xa lạ về văn hóa ngôn ngữ và mọi phương diện đời sống như Hoa Kỳ, anh đă chiến đấu với trở ngại to lớn thách thức tất cả những người di dân là ngôn ngữ, học tập và xây dựng đời sống kinh tế cho bản thân và gia đ́nh từ hai bàn tay trắng. Anh đă đi học lại từ đầu và lần lượt tốt nghiệp Cử nhân, Cao học (Thạc sĩ) Xă hội. Ḿnh có được niềm vui tinh thần là “ Mentor” và Field Instructor cho anh về cả hai cấp học Cử nhân (Bachelor) và Thạc sĩ (Master of Social Works – MSW) tại đại học California State University of Sacramento (CSUS). Sau khi tốt nghiệp đại học, anh đă làm việc với Sacramento County thuộc hệ thống DHHS của chính phủ Hoa Kỳ cho đến ngày về hưu. Trên đường đạo, anh vẫn giữ được vai tṛ của một Phật tử thuần thành. Song song với những sinh hoạt thường xuyên đi chùa, lễ Phật, anh đă dấn thân làm người đầu tàu đứng ra tổ chức nhóm Phật học Lộc Uyển giúp cho những người âm thầm học Phật có cơ duyên để tu học. Anh cũng hoạt động trong Ban Hộ Niệm để đem lễ nghi truyền thống của Phật giáo đến với đại chúng và đạo hữu đang cần. Về phương diện lễ nghi Phật giáo phát triển, anh Phô được biết đến như là một cư sĩ ăn chay trường chủ lễ với năng lực tán tụng kinh chú nhuần nhuyễn vào hàng tu sĩ có tài năng. Nhưng công hạnh nổi bật nhất của anh là việc thành lập Hội Từ Bi Quán Thế Âm (HTBQTA). Trong suốt 20 năm qua, Hội đă thường xuyên và nhất quán qua những chương tŕnh hoạt động từ thiện giúp trẻ em khuyết tật, cô nhi, người nghèo khổ, tàn phế... ở quê hương khốn khó và các nạn nhân bất hạnh ở quê người. Càng ngày trong những năm về sau này, Hội TBQTA đă gây được một ảnh hưởng đậm nét trong cộng đồng người Việt ở khắp nơi. Do đó, sự ủng hộ của quần chúng càng tăng và hiệu quả cứu khổ, xoa dịu những vết thương trần gian của Hội càng được phát huy tốt đẹp và rộng răi. Tŕnh bày một vài nét tiêu biểu về anh Trần Duy Phô, tôi không có chủ ư tô điểm cá nhân mà chỉ mong tập trung hướng nh́n về con đường xuất gia hành Đạo mà anh sắp sửa lên đường. Nếu xuất gia là đến ở chùa và chỉ giới hạn trong h́nh tướng xuống tóc, ăn chay, lễ Phật, thiển tịnh công phu, ly dục, không sở đắc, tự độ và độ tha... th́ anh Phô đă có được hạnh lành của người tu sĩ Phật giáo chân chính từ mấy chục năm qua. Với hàng cư sĩ Phật giáo thuần thành, nhất là đối với những người lớn tuổi, hầu hết ai cũng ít nhiều có ư hướng muốn đi tu khi nh́n lại tuổi đời đă xế chiều và các trách nhiệm căn bản đối với gia đ́nh xă hội, bản thân đă hoàn thành. Nhưng đó mới chỉ là sự “phủi tay” về mặt pháp lư và phương tiện thế gian. Nhưng có những trách nhiệm và dính mắc “xuất thế gian” vô h́nh vô ảnh nhưng bởi “nghiệp không rời một ly, không di một mảy” cho nên được buông tay thuận nghiệp mà đi tu th́ quả thật là một Phước Báu ở cơi Ta Bà này. Như ngài Mục Kiền Liên, một đại đệ tử đệ nhất thần thông của Đức Phật, trước phút diệt độ vẫn bị bọn cướp thảm sát như một sự trả nghiệp cho lỗi lầm nghe vợ bỏ cha mẹ chết đói giữa rừng trong tiền kiếp rất xa xưa. Nghĩa là không ai thoát nghiệp, kể cả hàng Thánh tăng, Bồ tát. Khi xuất gia về nương ḿnh cửa Phật, xuất sĩ vẫn thường có những “nợ nần” không tính trước như trường hợp sư Minh Chiếu thời nhà Đường. Ngài xuất gia năm 65 tuổi khi đă kết hôn từ thời tuổi trẻ. Ngài đă viết lại trong Minh Chiếu Thiền Hạnh về những trải nghiệm buổi đầu xuất gia là hằng ngày, cứ bắt đầu tĩnh tâm tọa thiền là h́nh ảnh người vợ già yếu hiện ra với câu nói đại khái rằng: “Ngày c̣n trẻ cưới nhau, ông hứa sẽ sống trăm năm đầu bạc với tôi chứ ông có hứa với Phật là nửa chừng sẽ đi tu cho đắc đạo riêng ḿnh đâu. Vậy sao khi phu thê tuổi già sức cùng lực tận, ông bỏ tôi mà đi tu đành đoạn vậy?!” Sau ba lần vào chùa và trở lại nhà, mỗi lần mất cả vài ba năm mỗi khi người vợ già và gia đ́nh gặp cơn tai biến, sư Minh Chiếu phải về lại với đời thường. Suốt mười lăm năm tâm bồ đề kiên cố không rời, nghĩa tào khang không phụ, cho đến khi bà cụ qua đời ở tuổi 80, Sư mới an tâm vào chùa tu tŕ miên mật cho đến ngày viên tịch. Người đương thời ca ngợi nhà sư Minh Chiếu là người thánh thiện, bán thế xuất gia nhưng t́nh và nghĩa; đời và đạo vẹn đôi bề nên tôn xưng ông là Chân sư Từ Đạo Hạnh.
Sư viên tịch năm 93 tuổi.
Ngài đă để lại nhiều bài kệ phảng phất “Gia huấn-
chứng đạo ca”, đượm nhuần t́nh đạo, t́nh đời.
Đơn cử vài dẫn chứng của
người xưa xuất gia đi tu phải đối diện và “quyền
biến” uyển chuyển như thế nào trước những chướng
duyên ngăn trở trên đường đời và đường đạo để
anh tham khảo mà vững bước đi tới; dẫu sớm hay
muộn th́ hạnh nguyện cũng sẽ viên thành. Xuất gia là một bước đầy bứt phá từ phàm qua thánh. Sau ngày 17-10-2017 khi gặp anh hay viết về anh như hôm nay, tôi phải “Thưa Thầy” xưng “Con” cho phải đạo... trưởng tử Như Lai. Hơn hai ngh́n rưỡi năm trước, 1250 vị Tỳ Kheo trong tăng đoàn nguyên thủy của đức Phật xuất thân là những bằng hữu và đồ chúng của các vị đại đệ tử của đức Phật. Đọc lại kinh điển và giáo sử để thấy được thế giới xuất gia thời ấy thánh thiện vô cùng nhưng cũng không ít hệ lụy dính mắc với những vấn đề nhân sinh của gia đ́nh, xă hội và đẳng cấp. Bởi vậy đức Phật từ bi đă quy định giới luật xuất gia và hoàn tục cho các vị tỳ kheo được lập đi, lập lại đến bảy lần. Nhắc lại chi tiết nầy để nói đến tinh thần tự do và khai phóng của đạo Phật; đồng thời, nhấn mạnh về chí nguyện xuất gia không phải là một sự dứt bỏ tuyệt đối với cuộc đời hiện thực mà thể hiện ư chí chọn lựa một phương tiện, một con đường phù hợp với căn cơ và bản nguyện của từng cá thể chúng sanh. Đạo Phật là đạo xuất thế “Đạt Ma sư tổ cửu niên diện bích”, nhưng cũng vừa nhập thế “Bồ tát thỏng tay vào chợ để cứu khổ cuộc đời”. Niết Bàn tịch tĩnh không ở đâu xa mà hiện hữu ngay giữa cuộc đời này. Là một người bạn cùng quê xứ Huế, cùng nếm trải những bước thăng trầm của quê hương và Đạo pháp, cùng xây dựng lại đời sống mới ở quê người và cùng hỗ trợ nhau trong học tập, trong công việc mưu sinh và hoạt động xă hội với anh Duy Phô tôi càng cảm thấy ḿnh có niềm thâm tín để tâm sự với anh trong giây phút này. Điều tâm sự trước tiên là anh Phô xuất gia trong một hoàn cảnh và thời điểm đặc biệt. Đây là giai đoạn chuyển ḿnh của Phật giáo Việt Nam ở phương Tây và áp lực phải đương đầu với sự thử thách trong nhiều lănh vực có tính đại chúng toàn cầu. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và truyền thông đại chúng toàn cầu đă đặt vấn đề trực tiếp với mọi tổ chức tôn giáo trên toàn thế giới là: Phải chuyển ḿnh, thay đổi, hiện đại hóa một cách có hệ thống qua các h́nh thức mang tính phong trào rộng khắp như Chấn Hưng, Chấn Chỉnh hay dừng lại, bảo thủ để bị lạc hậu và thoái trào.
Đă xa rồi những mái chùa rêu
phong và h́nh ảnh ngài bổn sư là danh tăng tĩnh
lặng và vững chải như sông núi. Cũng không c̣n
công hạnh xuất gia là con đường một chiều tịch
nhiên phá ngă mà không phải đương đầu với những
nhu cầu cấp thiết của thời đại chung quanh ḿnh.
Cũng không c̣n một thế giới vật lư và tâm lư
b́nh an cho các bậc hành giả, khất sĩ, ẩn sĩ chỉ
nhất tâm trên con đường giới - định - tuệ tu tŕ
miên mật. Xin được quư mến gọi tên anh cùng với pháp danh trước khi anh vào nhà Như Lai, mang họ Như Lai và được ban pháp hiệu Như Lai để tu học bước vào hàng trưởng tử Như Lai. Từ cư sĩ giữ 5 giới, anh sẽ bước vào ngưỡng cửa của người xuất gia thọ 10 giới Sa Di (từ 7 đến 13 tuổi gọi là “Sa Di đuổi quạ”… Khu Ô Sa Di. 14 – 19 tuổi là Sa Di ứng pháp. 20 tuổi trở lên gọi là Sa Di danh tự). Sa Di Thất Thập Danh Tự như anh thường rất hiếm, nhưng giới luật nghiêm minh, giang sơn nào có quy lệ nấy mong anh đi tṛn hạnh nguyện của ḿnh. Tuy nhiên, giữa Vô Thường vẫn có quy luật “xem Vô Thường là Thường” nên đạo Phật mới c̣n tồn tại và phát triển như ngày nay. Chính những nhóm tôn giáo “nguồn cội” lâu đời ở Ấn Độ như Bà La Môn, Ấn Độ Giáo, Silkh, Du Già Khổ Hạnh… đă quyết liệt đẩy Phật giáo ra khỏi quê hương h́nh thành ra nó. Nhưng trong đời sống tâm linh, lực đẩy, tính bạo động thường là biểu thị của sự bất lực và yếu đuối. Cụ thể là những tôn giáo “mạnh” đó đă tự chứng minh sự yếu đuối và thủ cựu tự thân của ḿnh khi suốt mấy ngh́n năm mà vẫn không truyền ra khỏi biên giới đầy ngăn ngại của đất Ấn. Rồi đây, trong đại giáo đoàn Tăng - Ni Phật giáo Việt Nam sẽ có sự hiện diện khiêm tốn của anh. Truyền thống cứu cánh tu hành là để thành Phật. Đó là một đại nguyện thiêng liêng của các bậc xuất gia cầu Phật đạo. Theo trải nghiệm của những bậc tu hành tôn túc, xuất gia là một cuộc hành tŕnh cô đơn đầy gian khó nên các vị tổ sư không ngần ngại khuyến tu rằng: “Xuất gia như ngưu mao, đắc đạo như thố giác.” Nghĩa là người xuất gia đông như hằng hà sa số lông trên ḿnh trâu mà kẻ đắc đạo hiếm hoi hay vắng bóng như sừng con thỏ. Lời khuyến tu mà đồng thời cũng là khuyến cáo đó, chúng ta không thể nhắm mắt làm ngơ khi Anh xuất gia trong khung cảnh mà thế giới Ta Bà này được xem như là thời kỳ Mạt Pháp. Theo tiến tŕnh phát riển tự nhiên của thành, trụ, hoại, diệt th́ chúng ta đang ở thời điểm tiếp cận của Hội Long Hoa cung nghinh một Đức Phật mới ra đời mở ra thời kỳ Thịnh Pháp. Nhưng muốn tới thời kỳ Thịnh Pháp th́ phải trải qua thời kỳ Loạn Pháp. Biểu tượng vô minh, rối đạo của thời kỳ loạn pháp này là cửa Thiền bất tịnh bởi hiện tượng sở đắc vật chất được tôn sùng, lạm phát h́nh tướng, đem phương tiện làm cứu cánh. Hệ lụy kéo theo là t́nh trạng “Tăng Già phân hóa, Tứ Chúng phân tranh” thay cho lư tưởng Tăng Già ḥa hợp, Tứ Chúng đồng tu. Dẫu rằng, trong một số t́nh huống “bất khả tư ngh́”, các tông môn, bộ phái bị phân hóa; tăng già thiếu ḥa hợp, tứ chúng thiếu duyên lành đồng tu. Nhưng con thuyền Phật giáo chuyên chở tinh hoa lời dạy của đức Phật vẫn không hề suy suyển mới chính là nơi nương tựa của Phật tử thuần thành xuất gia cũng như tại gia. Bởi vậy, người xuất gia hôm nay cần thiết phải là một tu sĩ để hành đạo, một hiệp sĩ để hộ đạo và một ẩn sĩ để hoằng đạo biết động không cầu, thấy vọng không theo. Dấu hiệu điển h́nh cho thời kỳ loạn pháp là người nói đạo nhiều hơn là người hành đạo. Người nói những triết lư cao xa uyên áo mà hành động ồn ào vọng động đông hơn là người khiêm cung hay âm thầm tu tŕ với tâm bồ đề kiên cố. Đây quả là thời kỳ mà chư tổ ví von là “hoa sen trong biển lửa”. Nên xuất gia đi tu trong thời này là sẽ gặp nhiều nghịch duyên và chướng ngại nhất. Thiền sư Ngộ Ấn ví von: “Ḷ lửa hoa sen nở thật xinh” (Liên phát lô trung thấp vị càn). Hoa sen nở tươi được trong ḷ lửa th́ người hội đủ nhân duyên để phát huy Bi-Trí-Dũng sao lại không thể tu hành thanh tịnh giữa bụi trần thời Mạt Pháp! Trăi mấy ngh́n năm thịnh suy, Phật giáo tồn tại và phát huy là nhờ những hạt minh châu sáng ngời trong biển lửa. Nếu có một lời chúc tụng bạn hiền Trần Duy Phô trên bước đường xuất gia là cầu nguyện và cầu chúc anh măi vững tiến trên đường đạo, đừng bao giờ quên tinh thần Bi – Trí – Dũng mà anh em ḿnh đă nguyện thực hành từ thời c̣n sinh hoạt với Gia Đ́nh Phật Tử. Bên cạnh Từ Bi và Trí Tuệ đưa anh lên tầm cao th́ sự Dũng Mănh giúp anh đứng vững, an trú trong chánh niệm và tinh tấn trong pháp hạnh.
T́m lại người xưa qua sách sử,
mỗi vị xuất gia đều có một hoàn cảnh, một tâm
nguyện và một điều kiện thuận hay nghịch –
thường được xem là thuận duyên hay chướng duyên
– riêng. Nhưng xuất gia là một hạnh nguyện dấn
thân đầy hùng lực của người quyết chí dứt khoát
tự giúp ḿnh hóa thân từ người b́nh thường sang
hàng thánh thiện. Bậc tu hành là người đầy can
đảm, dám dứt bỏ tất cả, để t́m đến “ông Phật sẽ
thành” trong chính ḿnh: Bỏ h́nh tướng để t́m
cái không tướng; bỏ dục vọng ham muốn để t́m cái
rỗng lặng an nhiên tự tại. Vua A Xà Thế, A Dục
Vương là biểu tượng cho kẻ “buông dao thành Phật”
v́ đă trải qua nhiều đại kiếp là phàm tăng, chân
tăng, thánh tăng. Cho nên xuất gia, tu hành chỉ
mới là biểu hiện h́nh tướng của kiếp hiện tiền
trên con đường tử sinh vạn dặm giác ngộ thành
Phật. Khi chưa giác ngộ th́ mỗi kiếp tu đều có
thể là Duyên Tu hay Nghiệp Tu để thanh thỏa cho
hết kho tàng phú quư hay nợ nần huân tập từ
nhiều kiếp, nhiều đời trước khi nhiếp tâm tu
thành chánh quả. Bỏ lại sau lưng thế giới bụi trần với lo toan, phiền muộn, thỏa hiệp, phân tranh. Quên đi những ân oán, cưu mang, yêu ghét, so b́ nghiệt ngă. Khép lại những cánh cửa vọng tưởng, mơ hồ, vỡ bờ, trăn trở. Không ngại ngần hay run rẩy bước lên lối về “đường xưa mây trắng” mà đi. Trong Đạo Đức Kinh, Lăo Tử viết: “Thiên lư chi hành, thủy ư túc hạ” - Cuộc hành tŕnh ra đi ngàn dặm bắt đầu từ bước chân thứ nhất. Con đường tu hành cũng bắt đầu từ cái nh́n vỡ oà chân lư để cất bước lên đường không ngăn ngại.
Và, từ bước chân khởi điểm ra
đi… th́ gắng đi cho tới cơi Chân Nguyên, bạn
hiền thân quư nhé.
|