Trần Kiêm Đoàn
THÂN ĐÂU TÂM ĐÓ
Một góc chùa Diệu Nhân - Ảnh: dieunhan.net
Chúng tôi đến chùa Diệu Nhân: Chùa ở trên đồi
cao, xung quanh là núi rừng trùng điệp. Những
giờ tọa thiền tĩnh lặng như mất hút trong rừng
thu. Sự im ắng của suối thiền, tâm định đôi khi
chợt lao xao với tiếng gió qua đồi, tiếng lá xào
xạc, tiếng chim gọi bầy, tiếng phong linh lắt
lay ngoài hiên. Chín giờ tọa thiền, cộng lại là
hơn một ngày từ sáng đến chiều ngồi trầm tư mặc
tưởng! V́ đă có thói quen ngồi tĩnh lặng hàng
ngày - thường là 30 phút - ở nhà, nên khi ngồi ở
chùa đâu được chừng nửa giờ là sau đó tôi bắt
đầu cảm thấy “không yên”. Cảm giác ngứa ngáy từ
đâu hiện về trên da thịt. Những vọng tưởng nối
đuôi nhau khởi lên. Cảm giác và ư nghĩ hợp lại (có
thể gọi là “Tâm” chăng) tấn công khối thân thể
ngồi xếp bằng theo thế bán-già. Tôi cố sức muốn
đuổi cái “tâm” đi cho thân xác được ngồi yên mà…
thiền định. Nhưng cái tâm đeo riết cái thân,
càng muốn định tâm th́ thân tâm càng hỗn loạn.
Sau buổi ngồi “thiền” một giờ đầu tiên với đại
chúng ở chùa tôi cảm thấy mệt nhoài.
Nhưng nghĩ xa, nghĩ gần, rồi cũng phải dọn ḿnh
để tiếp tục “vào thiền” theo đại chúng. Nửa giờ sau của buổi ngồi thiền kế tiếp, tôi thử dùng “trí” để chọi với cái “tâm”. Mở đầu cuộc… phản công, tôi bắt cái thân ḿnh phải ngồi yên, nhắm mắt. Tôi cố duyệt lại ba chưởng lực căn bản của Thiền có dạy trong kinh Viên giác là: Chỉ (chặt đứt mọi ư tưởng, cảm nhận, cảm xúc vừa dấy lên), quán (đắm ḿnh suy tưởng về một h́nh ảnh, ư tưởng, chuyện, hay đề tài nào đó), tịnh (dọn sạch đầu óc và giữ cho thân tâm hoàn toàn rỗng lặng). Tôi cố nhớ lại 25 vị thế tương tác của chỉ <> quán <> tịnh khi tọa thiền và cảm thấy cả thân và tâm của ḿnh như hai đứa trẻ chơi tṛ cút bắt nhau. Chúng chỉ tạm ngừng lại khi đứa này bắt được đứa kia. Tâm tôi láu lỉnh chạy nhảy tung tăng trong lúc thân tôi bị buộc lại. Chân co, tay xếp, mắt nhắm, tai mắt mũi lưỡi đều ở thế “tịnh” như thế này th́ làm sao tôi có thể chụp bắt được “thằng tâm” hiếu động vừa ở trong tôi, vừa ở ngoài tôi, vừa nhảy tưng tưng quanh địa cầu, vũ trụ.
Tâm không điểm tựa mới là chân tâm - ưng vô sở
trụ nhi sinh kỳ tâm
Hay bởi tôi chưa biết mặt mũi tâm tôi như thế
nào nên không biết nó giống cái ǵ và diện mạo
ra làm sao nên nó đứng sờ sờ bên cạnh tôi mà
không cách nào tóm nó được?
Cũng giống như quan niệm của phần đông đại chúng,
tôi thường nghĩ một cách “chỉn chu” rằng, tâm
cũng là một “thực thể” dễ nắm bắt như thân;
nhưng chỉ có khác là ở phạm trù tinh thần. Mỗi
người đều có một cái tâm như có một trái tim ở
trong người. Người Trung Quốc đồng hóa khái niệm
“tâm” với trái tim. Người phương Tây cũng diễn
đạt cảm xúc yêu thương với “love with all my
heart - yêu thương với cả trái tim”. Nhưng khi
họ dịch chữ tâm trong đạo Phật th́ lại dịch là
“mind: tâm trí và mindfulness: chánh niệm”. Nói
tóm lại là người ta nói đến tâm cũng như nói đến
Trời và Đất. Nó trên đầu ta, trong ḷng ta, dưới
chân ta mà chẳng ai với tới. Người ta cứ tưởng
tâm, Trời, Đất là của ḿnh v́ lúc nào cũng có nó
bên cạnh nhưng chẳng có ai nắm được trong ḷng
bàn tay. Sáu lần ngồi thiền c̣n lại trong khóa tu học, tôi nhất định phải dùng một nửa ba mươi phút sau của “cảm giác ngứa ngay bất an” để đè cái tâm bất an của ḿnh xuống. Tôi kiếm cái đầm tư tưởng mà nện xuống cho chặt cái tâm vượn lăng xăng của ḿnh bằng cách nhớ lại những câu hỏi đậm nét nhất trong chương tŕnh tu học.
Tâm là ǵ? Có lẽ đây là câu hỏi lớn nhất chiếm lĩnh tâm trí mọi người nhiều mặt mà nhất là trong lĩnh vực tôn giáo và triết học. Ai cũng ngỡ là ḿnh biết rơ cái tâm của ḿnh qua những cảm xúc, cảm thọ nhất thời. Nhưng khi đặt nó trong mối tương quan “Thân đâu tâm đó” th́ t́m mặt mũi cái tâm như thế nào mà kiếm hoài không ra. Cũng chẳng có ǵ lạ. Từ thời Vệ Đà Ngữ Tuệ, mấy ngh́n năm trước khi Đức Phật ra đời, các đạo sư Ấn Độ đă cất công đi t́m cái tâm ngoài thân xác mà t́m không ra. Phái Khổ Hạnh th́ cứ tưởng diệt thân xác là tâm hiển lộ. Phái Hưởng Lạc th́ cứ nghĩ là chăm bón cho cái thân xác căng phồng lên th́ tâm sẽ hớn hở bày ra đứng trên thân xác mà ca bài hành lạc thú. Nhưng tâm vẫn cứ nằm trong góc khuất của một vùng trời bí ẩn. Trong đợt tu học này, tuy t́m tâm chưa ra, nhưng tôi quyết phải t́m tâm - ít nhất là cái tâm bé nhỏ như hạt cát, hạt bụi của ḿnh - để đóng vào khung “Thân đâu, tâm đó” cho khỏi trễ tràng chuyện công phu!
Tôi cũng ngồi xếp bằng, nhắm mắt quan sát hơi
thở... (ảnh chỉ mang tính minh hoạ)
Tôi cũng ngồi xếp bằng, nhắm mắt quan sát hơi
thở theo cả trăm người đang ngồi trong tiền
đường nhà chùa lặng lẽ như nhau. Ba mươi phút
trôi qua. Cơn ngứa ngáy bắt đầu. Tôi hé mắt nh́n
qua khung cửa kính. Là mùa thu đủ màu xanh, nâu,
vàng, đen, trắng đỏ... cái rụng chao ḿnh xuống
đất, cái lắt lay nương ḿnh theo gió. Tôi nghĩ
cái tâm của tôi đă ra ngoài khung cửa sổ, đến
bên những ngọn lá và chờn vờn theo gió, tắm gội
nắng vàng và say sưa bay nhảy. Rồi gió mạnh,
thổi rạp những ngọn cây, cả bầu trời xanh thăm
thẳm và từng dải mây hồ hải bay qua. Thiên nhiên
bao la quá và tôi nghĩ đến “tam thiên đại thiên
thế giới, hằng hà sa số chư Phật...”. Tôi cảm
thấy như đôi mắt ḿnh đang đưa tiễn, nâng cao
cái tâm của ḿnh trở thành rộng bao la như vũ
trụ. Tôi bay theo tâm và rời thân xác lúc nào
không hay. Bỗng có tiếng động nhè nhẹ và cái
thước gỗ bảng lớn như cái quạt giấy đụng vào vai
tôi, rồi có tiếng nhắc êm nhẹ của một vị sư cô
hộ thiền: “Chú ngồi thẳng lên và nhích đầu về
phía bên trái một chút.” Tâm tôi bay vút từ
không gian mơ mộng ngoài kia và nhỏ lại thành
một điểm trên vai. Tâm (hay ai, hay lực ǵ)
truyền lệnh cho tôi phải vâng lời sư cô ngồi
thẳng lưng và nhích đầu về bên trái. Rồi nhéo
một cái như kim đâm trên má phải. Tôi x̣e tay
đánh “bép” vào chỗ đau trên má. Ồ th́ ra con
muỗi từ ngoài sân bay vào đốt trên má tôi. Trong
một thoáng rất nhanh, tôi có cảm giác như tâm
tôi co rúm lại thành một điểm trên má...
Cứ thế, cảm xúc, suy nghĩ và cảm giác của tôi
thay đổi và biến hiện không ngừng. Thân tôi ngồi
yên một chỗ; trong khi tâm tôi bay khắp mười
phương và mơ tưởng tới ba ngh́n thế giới hay co
lại thành một chỗ trên vai, một điểm trên má. Đó
là tâm, một mảnh của tâm hay không phải là tâm.
Nếu là tâm th́ tâm là ǵ; nếu không là tâm th́
tâm là ǵ?
Chẳng có một định nghĩa hay một khái niệm nào về
tâm được xác định hay trở thành khuôn thước cả. Trong im lặng, một ư tưởng dấy lên: tâm là một trạng thái của tánh Không và Duyên khởi chăng? Nghĩa là tâm không có h́nh tướng thường hằng, nhưng tâm lại xuất hiện dưới thiên h́nh vạn trạng tùy theo những điều kiện khởi lên và tác hợp gọi là “duyên” mà thành, mà hiện, mà biến chuyển không ngừng. Thân như đáy giếng sâu, như mặt hồ phẳng lặng. Tâm như một đêm trăng, một buổi chiều, một cơn băo, một chiếc đ̣ ngang dọc trên sông. Sông ngời bóng trăng, tím lịm buổi chiều, dậy sóng quay cuồng trong cơn băo, đẩy nhẹ thuyền đi. Nhưng không bị cột buộc vào nhau. Tâm là tất cả, là một và không là ǵ cả. Rồi không vẫn hoàn không. Tôi cảm thấy một niềm vui nhẹ nhàng hiện đến khi có tiếng chuông xả thiền thanh thoát gióng lên. Thân đâu tâm đó hay thân đó tâm đâu hay thân tâm đâu đó làm sao xác định được và có ǵ quan trọng đâu mà phải gán ghép, mong cầu trói buộc hay tách rời nhau.
Chùa Diệu Nhân vào xuân - Ảnh: dieunhan.net
Chuyện Đức Phật Thích Ca thuyết thiện giả A Nan
định vị tâm ở đâu tới bảy trường hợp ghi lại
trong kinh Lăng nghiêm quả thật là linh động và
thú vị. Đó là tâm cảnh trong ống kính vạn hoa:
tâm ở trong ta, tâm ở ngoài ta, tâm ở giữa ta,
tâm núp sau đuôi mắt ta... tất cả chỉ là những
khái niệm khai mở mang tính giả định. Trong khi
A Nan theo thói thường trần thế, quyết phải t́m
cho tâm một chỗ dựa, một chốn nương thân th́ Đức
Phật dùng tuệ quang minh đuổi tâm chạy quanh cho
đến khi A Nan buông tay không thể t́m cho tâm
một điểm tựa. Tâm không điểm tựa mới là chân tâm
- ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm - v́ c̣n điểm
tựa là c̣n dính mắc. Tâm là hạt bụi, là mảnh
h́nh hài, là buồn vui thế sự, là tiếng sấm nổ
bùng, là thiên vơng khôi khôi - lưới trời lồng
lộng - bao trùm vũ trụ mà c̣n dính mắc vào đâu
th́ tâm sẽ đông cứng lại thành tượng đài hay
triết lư mà tan biến. Mỗi thân xác, mỗi mảnh h́nh hài đóng vai một trợ duyên hay một nghiệp quả để soi bóng trong mặt hồ phẳng lặng của tâm. Tâm là ḍng nước luân lưu vô tận. Thân th́ có thể trợ duyên hay có khi đeo theo nghiệp quả để biến tâm thành tâm thiện, tâm ác, tâm tham, tâm xả, tâm tà, tâm định, tâm có, tâm không... Thân làm biến đổi tính chất của tâm thành vô cùng vô tận như một vụm nước trong có thể biến thành bát chè xanh, chén nước mắm, tô canh, hũ tương, chén thuốc độc, chén thuốc bổ... tùy theo chất dùng ḥa tan trong đó. Tâm sẽ biến chuyển theo thân mạng và nghiệp lực của sinh thể. Cái sinh thể c̣n phải đeo mang thân xác phải dựa vào tâm để có linh hồn. Nên khi tâm dính vào thân nào đó th́ tâm trở thành “thuộc tính” của thân, của nhân vật nào đó mang cái thân tứ đại và nghiệp báo trùng trùng. Tâm A Dục Vương thời chưa gặp Phật ḥa tan với nghiệp sát mà biến ông thành bạo chúa. Nhưng khi tâm vua A Dục được Phật lực khai thị rồi th́ cũng tâm đó nhưng lại được ḥa tan với suối nguồn sám hối, từ bi, trí tuệ mà biến ông thành đại hiền vương hộ pháp, độ sinh. Cùng một thân xác nhưng tùy theo trạng thái của tâm mà thay đổi. Xưa Thượng toạ bộ chia ra làm 141 loại tâm (89 tâm vương và 52 tâm sở). Đến Tuệ Trung thượng sĩ, thầy của Phật hoàng Trần Nhân Tông, th́ tâm là “bất khả thuyết - không thể nghĩ bàn”:
|