Trần Kiêm Đoàn
TỪ ÁO CÀ SA ĐẾN THẬP TỰ
GIÁ
VÀ SỰ PHÁ SẢN CỦA TỰ DO
Độc thọai
Một ngày mùa Đông năm 2000, anh Lê Quang Sinh, người chủ
trương Hội Thơ Tài Tử Việt Nam ở Sacramento trang trọng giới
thiệu về một tập sách của một tác giả Việt Nam đang ở Đức
theo diện “xuất khẩu lao động”. Đó là cuốn “Từ áo cà sa đến
thập tự giá” của Huệ Nhật. Tập sách nầy đă được anh Sinh và
các cộng tác viên của anh trong Hội Thơ bảo trợ trang trí,
tŕnh bày, lên khuôn, in ấn, và phát hành. Anh ngơ lời muốn
tôi đọc và có ư kiến về cuốn sách này. Vốn rất kính mến anh
và các vị khác trong Hội Thơ cộng với t́nh cảm yêu chuộng
văn học nghệ thuật sẵn có, tôi nhận lời, mặc dù chưa có hân
hạnh đọc tác phẩm này. Tôi vốn quư sách như quư t́nh bằng
hữu nên sáng hôm sau, vội vă ra báo Làng để nhận tập sách.
Tôi ḷng tự dặn ḷng là sẽ giữ lời hứa với anh Lê Quang Sinh;
cũng như từ trong thâm sâu của ư thức, tôi tự hứa là sẽ đọc
và phân tích tác phẩm một cách nhiệt t́nh bằng cảm quan nghệ
thuật giới hạn và sự hiểu biết khiêm tốn của ḿnh.
Tập sách dày 300 trang và in ấn cũng rơ ràng. H́nh b́a chụp
chân dung tác giả mặc áo cà sa vàng, đứng bên tường hoa giấy
màu hồng leo quanh lưới trông lờ mờ như dây kẽm gai. Và phía
góc chân trời nổi lên cây thánh giá màu xám gắn trên một
điểm tựa không có h́nh thù rơ rệt. H́nh b́a sau là ảnh chụp
của Huệ Nhật và thi sĩ Bùi Giáng.
Tôi đọc đi rồi đọc lại để cố gắng nắm bắt một cách tương đối
chuẩn xác nội dung của tập sách hầu tránh những nhận xét có
tính cách chủ quan và thiên vị khi nhận định.
Với một nội dung mang nặng đậm tính chất điển h́nh của
phương thức “phê và tự phê” mà tôi sẽ có dịp tŕnh bày ở
phần sau, kết hợp với một h́nh thức khá bất thường đă làm
tôi hơi chững lại. Tại sao tác giả lại chọn một h́nh b́a
mang biểu tượng khích động và xung đột tôn giáo như thế?
Với sự cảm nhận thông thường, sự chọn lựa một bức tranh như
thế làm h́nh b́a cho tác phẩm của ḿnh tự nó nói lên rằng:
Thứ nhất, đứng về phương diện nghệ thuật, tác giả đă mất hết
tự tin khi coi bản thân ḿnh chỉ là một cá thể vô hồn. V́
vậy, cần phải cầu viện đến áo cà sa quấn vào, có thánh giá
làm điểm tựa, và có Bùi Giáng truyền hơi th́ (may ra) anh
mới xác định được ḿnh là ai hay sao?
Thứ hai, đứng về phương diện tâm lư và xă hội, khai thác và
lạm dụng biểu tượng thiêng liêng của tôn giáo để phục vụ cho
sự quảng cáo và tuyên truyền là một việc làm mà bất cứ một
người có suy nghĩ b́nh thường nào cũng tránh động chạm.
Thứ ba, về phương diện tôn giáo thuần túy, khi nh́n bức
tranh tôi bỗng đặt câu hỏi về sự tỉnh táo của Nguyễn Huệ
Nhật và nhóm chủ trương. Một sai lầm nghiêm trọng của Huệ
Nhật mà đối với bất cứ tôn giáo nào, mà đặc biệt đối với
Phật giáo, sẽ bị coi như là hành động lạm dụng và miệt thị
đó là thái độ cố t́nh bôi lem chiếc áo cà sa vàng mà mọi
Phật tử đều tôn kính đảnh lễ. Huệ Nhật đă “cởi áo” cà sa từ
ba mươi năm trước, ra đời lấy hai vợ, sống một cuộc đời trần
tục, rồi theo Tin Lành (Tiểu sử do tác giả tự ghi). Nay bỗng
dưng anh quàng áo cà sa vào chụp h́nh dưới chân thập tự giá
và cho in lên b́a sách vào năm 2000 là nhằm mục đích ǵ?
Để diễn tuồng? Để nhấn mạnh và minh họa cho sự “ưu việt” của
hành động từ bỏ Phật giáo qua Tin Lành chăng? Để minh chứng
cho đức tin của anh đi từ si mê đến giác ngộ chăng? Hay để
bôi lem biểu tượng thiêng liêng nhất của người tu sĩ Phật
giáo? Dù xuất phát từ bất cứ động cơ nào đi nữa, th́ việc
Huệ Nhật dùng h́nh ảnh chiếc áo cà sa truyền thống của giới
tu sĩ Phật giáo để phục vụ cho mưu đồ cá nhân của ḿnh là
một sự bất chính về hành động, bất minh về tư tưởng, bất
kính về đức tin, và bất nghĩa về cung cách xử thế. Không lẽ
Huệ Nhật lại muốn lập lại cái lỗi lầm gây chiến tranh tôn
giáo đă làm cho nhân loại hận thù, hiềm khích nhau hàng bao
nhiêu thế kỷ?! Nếu có, liệu Huệ Nhật có đủ sức làm việc đó
hay không? Ngược lại nếu không, th́ Huệ Nhật là ai?
Thật ra, trên tư thế của một độc giả, cuộc đời tư của tác
giả có như thế nào chăng nữa cũng chẳng có ǵ quan trọng.
Thế Lữ có tung bảo kiếm hay nằm bẹp hút thuốc phiện ở phố
Khâm Thiên khi làm bài thơ “Hổ Nhớ Rừng” th́ đâu có ǵ khác
nhau khi đọc lên bài trựng ca bi tráng bất hủ của ông. Hàn
Mặc Tử có làm thơ trong cơn quằn quại đau đớn của bệnh tật
hay phiêu du nơi Lầu Ông Hoàng th́ thơ ông vẫn là những viên
ngọc quư trong thi ca.
Trong trường hợp của Huệ Nhật th́ lại khác, anh đă dùng
chính cuộc đời của ḿnh để làm tài liệu viết lách. Lối văn
trong sách anh không phải là văn chương sáng tạo mà cũng
chẳng phải là ngôn ngữ nghị luận mà là một lối hỏi đáp thắc
mắc với chú em tên Thúc ở Mỹ. “Dữ kiện” làm nền tảng cho lư
luận và chứng minh chính là cuộc đời và sự suy nghĩ của anh.
Bởi vậy, chính thân thế và sự nghiệp của anh là linh hồn tác
phẩm của anh.
Khi đọc một câu chuyên nói về đời tư của một người th́ người
đọc để t́m hiểu và phân tích cần phải cẩn trọng gấp đôi,
nhất là khi những điều đề cập có liên quan đến tôn giáo. Bởi
vậy, tôi cảm thấy cần thiết nói rơ quan điểm về tôn gíao của
ḿnh.
Tôi là một người theo đạo Phật và học Phật, nhưng đồng thời
cũng là một học sinh xuất thân “trường Đạo” từ hệ thống giáo
dục của Thiên Chúa giáo Dương Sơn. Từ năm 1972 đến tháng
2-1975 tôi là trưởng đoàn Giáo Chức Công Tác Xă Hôi Quảng
Trị điều hợp và thực hiện những chương tŕnh xă hội và cứu
trợ của các cơ quan Xă Hội Tin Lành Á Châu (ACS), cơ quan Xă
Hội Tin Lành Việt Nam (VNCS), chương tŕnh Cứu Tế Xă Hội
Công Giáo (CARITAS). Từ 2 năm nay, tôi là giảng viên thỉnh
giảng của Phân khoa Xă Hội Tin Lành Presbytarian. Chính
những họat động không có biên giới tôn giáo nầy đă mở mắt
cho tôi có được một cách nh́n rất cởi mở và thoáng đạt về
đức tin tôn giáo. Khi được học triết học Tây Phương, tinh
thần và thái độ thoáng đạt về tôn giáo của tôi càng được
khẳng định về khái niệm “Oneness” (Uyên Nguyên) khi suy tư
về Duyên-Nghiệp, về Thượng Đế, về sự hiện hữu của Đấng
Thiêng Liêng vô h́nh nhưng vĩnh hằng và thường tại. Tôi đồng
t́nh với quan điểm: “Đạo là con đường (dẫn đến chân, thiện,
mỹ), chứ không phải đạo là pháo đài để cho con người tấn
kích nhau từ trong lỗ châu mai của đức tin khép kín và tưởng
hẹp ḥi”
Với một tinh thần tôn trọng đức tin và cung kính với tất cả
các tôn giáo, tôi xin được đi vào nội dung của tập “Từ áo cà
sa đến thập tự giá”.
Tác giả Huệ Nhật, theo tiểu sử ghi trên b́a sau của sách,
cùng tuổi với tôi; nghĩa là cùng một thế hệ “chiến tranh
Việt Nam” – một thế hệ mà niềm tin, tư tưởng, và ước vọng
thường xuyên bị thử thách từ chân đến giả, chao đảo từ tả
đến hữu, lung lay từ gốc đến ngọn theo đà ác liệt của cuộc
chiến trên quê hương. Phải chăng v́ thế mà tôi rất chia sẻ
sự trăn trở, thao thức, xót xa của Huệ Nhật được thể hiện rơ
nét hay bàng bạc từ đầu đến cuối tác phẩm.
Tập sách “Từ áo cà sa đến thập tự giá” là một sự tập hợp tùy
nghi, không có chương mục hay hệ thống rơ ràng. Đó là tập
hợp những bức thư trả lời từng đọan một của Huệ Nhật cho một
bức thư dài của người em tên Thúc ở Mỹ với ngôn ngữ châm
biếm, ca tụng Huệ Nhật lên tận mây xanh ở chỗ nầy; rồi mỉa
mai đá anh lăn lóc ở chỗ khác. Người đọc không cần phải bận
tâm đặt câu hỏi là có thật một bức thư như thế hay không? V́
dù có hay không th́ đây cũng chỉ là một cách phỏng theo mô
thức luận lư rất cổ điển như “Ngư Tiều Vấn Đáp” hay “Lục Súc
Tranh Công” trong cổ văn Việt Nam hay kiểu “Myth” (Huyền
thoại) và “Reality” (Thực chất) của Tây phương nhằm mục đích
làm sáng tỏ một vấn đề c̣n mù mờ đang nằm trong ṿng tranh
căi. “Vấn đề c̣n mù mờ ...” ở đây chính là cuộc đời và hành
tung tŕnh làng một cách bất nhất của Nguyễn Huệ Nhật.
Trước hết theo sự mô tả trong thư người em tên Thúc th́ bản
chất “tùy gió phất cờ” của Nguyễn Huệ Nhật rất gần giống với
một kẻ theo thời cơ chủ nghĩa:
“Từ một chú bé sáng trường làng, chiều chăn trâu, đă húi đầu
hôm sớm kinh kệ, học hành đạo pháp, qua một thập niên lên
đến chức đaị đức. Thạo Phật pháp, biết rơ ngọn ngành rồi
“xù” Phật. Đến cuối thập niên 70 bắt đầu biết đến kinh thánh,
tin Chúa. ... Một ngày nào đó chắc anh xù Chúa của giáo phái
Tin lành nhảy qua rao giảng đức tin với Mohamét.” (Trang 16)
Thật ra, th́ Huệ Nhật cũng chẳng biết ǵ về Phật giáo. Kiến
thức Phật học của anh có vẻ là một mớ bung xung chưa tới bờ
mà cũng chẳng tới bến như anh tự thú nhận khi trả lời cho
người em tên Thúc vừa nêu ở trên: “Ngày xưa đi tu trong Phật
giáo, anh (Huệ Nhật) học những giáo lư sâu xa và phức tạp
khiến cho sự tu hành có cái vẻ cao siêu, nhưng với anh th́
rất mệt mỏi và gặp nhiều mâu thuẫn khó nói lắm.” (Trang 22).
Sau đó Huệ Nhật lập đi lập lại nhiều lần về đức tin của ḿnh
đối với Thiên Chúa, quyết theo Chúa để t́m sự sống đời đời.
Tiếp đến anh tŕnh bày với người em về “đức tin” của ḿnh
đối với tiền. Anh viết: “Trong t́nh anh em, anh có thể nói
rằng tôn giáo nào cũng có tiền và cũng có kinh doanh cả. Tôn
giáo là một môi trường “kinh doanh” béo bở. Riêng tiền dâng
hiến của hàng tỷ tín đồ cũng đă nhiều lắm rồi. ... Đối với
anh, nghèo cũng là một sự phước hạnh, mặc dầu anh vẫn muốn
ḿnh giàu.”
Trong phần tiểu sự và thư giải bày tâm sự, h́nh như suốt một
đời anh chưa bao giờ được yên nghỉ. Như một đứa trẻ bơ vơ bị
ném ra quá sớm giữa ḍng đời xuôi ngược, anh đă vật vờ đi từ
cực đoan nầy đến cực đoan khác. Tuổi trẻ anh vào chùa đi tu
theo Phật Giáo. Sau đó anh bỏ tu lấy vợ, theo phong trào
phản chiến “chống Mỹ cứu nước”. Sau năm 1975, khi cộng sản
vừa chân ướt chân ráo chiếm Sàig̣n, anh liền lănh đạo chương
tŕnh lo cho 1500 người hồi hương bị cộng sản nghi là CIA bỏ
tù trong một thời gian ngắn (!?). Tiếp theo bị vợ bỏ, anh
liền lấy vợ lần thứ hai, vợ bỏ, gia đ́nh ruồng bỏ, anh em
hất hủi, cháu chắt đánh đập, “xù Phật theo Chúa” (Chữ của
chính anh), ... vân vân và vân vân.
Đời tư của Huệ Nhật dù có vàng son hay khốn nạn, đó là
chuyện riêng của đương sự, nếu không liên quan đến ai cả.
Đằng nầy, anh đă đem chuyện đời tư của ḿnh để làm bằng
chứng và phương tiện bôi bác Phật giáo một cách ngang nhiên
và trắng trợn.
1. NGUYỄN HUỆ NHẬT ĐĂ BÔI BÁC PHẬT GIÁO NHƯ THẾ
NÀO?
- Bôi bác và chụp mũ tinh thần đấu tranh bất bạo
động của Phật Giáo:
Huệ Nhật đă lập đi lập lại nhiều lần từ đầu đến
cuối tập sách về cái gọi là “Hai lần tự thiêu
hụt” của anh.
Lần thứ nhất, Huệ Nhật kể lại rằng, năm 1963,
khi mới 18 tuổi, vừa mới đi tu theo Phật Giáo
được 4 năm, anh đă t́nh nguyện tự thiêu 2 lần:
Một lần tại Nha Trang, tháng 8/1963 và cả hai
lần đều bị từ chối. Thế nhưng sau đó Huệ Nhật đă
được giới tu sĩ Phật Giáo và Phật tử coi như một
vị “thánh sống”. Sau đó Huệ Nhật laị bay về
Quảng Trị và t́nh nguyện tự thiêu tại Huế, tháng
10/1963 và cũng bị từ chối (Sđd, trang 246-254).
Đâu là sự thật về “lịch sử tự thiêu” của Huệ
Nhật?
Về mặt nguyên tắc: Trong năm 1963, đă có 7 tu sĩ
Phật giáo tự thiêu, gồm 2 Hoà Thượng và 5 Đại
đức (tuyệt nhiên không có một vị nào thấp hơn
hàng đại đức hay ở lứa tuổi mới qua khỏi vị
thành niên hoặc c̣n ở hàng sa-di như Huệ Nhật cả).
Tự thiêu đối với Phật giáo là một sư hiến dâng
nhục thể để cúng dường tam bảo, v́ vậy h́nh thức
cung hiến nầy mang một ư nghĩa rất thiêng liêng
và cao cả. Huệ Nhật thuở đó mới 18 tuổi đời, vào
ở chùa 4 năm, nếu chịu tu hành nghiêm túc cũng
chỉ mới lên được hàng sa-di, nghĩa là một chú
tiểu ở chùa, chưa được đứng vào hàng ngũ tham
gia những sinh hoạt bên ngoài của giáo hội. Thế
mà anh tự “phong thánh” cho ḿnh với những sự
việc bịa đặt có vẻ như đă được giáo hội chấp
thuận trên nguyên tắc để đứng vào hàng “tu sĩ
chuẩn bị tự thiêu”.
Về mặt sự kiện: Tại Huế, có hai cuộc tự thiêu.
Vụ đầu tiên là Ḥa Thượng Thích Tiêu Diêu ngày
26-6-1963 và vụ thứ hai là Đại đức Thích Thanh
Tuệ ngày 15-8-1963. Thời đó danh sách các tu sĩ
t́nh nguyện lên tới 36 vị, nhưng giáo hội đă
chấm dứt việc tự thiêu vào tháng 8-1963. Trong
lúc đó Huệ Nhật lại xin tự thiêu vào tháng
10-1963. Oái oăm hơn nữa là địa điểm dự trù là
Khách Sạn Thuận Hóa, trong lúc Khách Sạn Thuận
Hóa lại nằm ẩn kín sau Morin, ít khi có bóng
người lai văng. Trường hợp nầy không biết có nên
mượn nhận xét của nhà văn hài hước Bernard Shaw
không: “Nói dối mà thiếu thông minh cũng như mặc
quần thủng đáy, càng kéo càng ḷi... ra!!!”
Sự bịa đặt đầy tính chất hoang tưởng của Huệ
Nhật nhằm mục đích ǵ?
Chính Huệ Nhật đă trả lời ngay trong tập sách
của anh ta: “Khi c̣n nhỏ, anh mơ ước đi t́m chân
lư như thái tử Tất Đạt Đa. Cạo đầu cầu đạo đi tu.
Đang học đạo anh t́nh nguyện tự thiêu chống bất
công tôn giáo ở miền Nam, v́ lúc ấy anh tin rằng
đó là cách t́m gặp chân lư mau nhất, nhưng suưt
nữa mà anh bị Việt Cộng lợi dụng tổ chức cho cái
chết của anh dưới danh nghĩa hy sinh cho Đạo
Pháp” (Trang 73&74).
Huệ Nhật sỉ nhục phong trào tranh đấu Phật giáo
và các tăng ni tự thiêu là “Việt Cộng tổ chức
cho cái chết...” sợ chưa đủ rơ ràng, anh c̣n
minh họa thêm rằng một người cầm đầu phong trào
Phật giáo ở Huế là thượng tọa Trí Quang đích thị
là cộng sản: “Ông Thiệu tạo thêm sự phân rẽ vốn
đă sâu sắc trong hàng ngũ Phật Giáo bằng sắc
luật 23/67 để đánh gục con sư tử tôn giáo chuyên
môn tự thiêu tuyệt thực chống các chính quyền
miền Nam một cách quá trớn. Hồi đó nếu ai nói
rằng có bàn tay cộng sản đạo diễn trong hàng ngũ
Phật Giáo th́ bị nhiều người chống đối. Thế
nhưng sau 30-4-1975, anh mới biết ḥa thượng Trí
Quang đă làm việc theo Việt cộng tới cỡ nào.” (Trang
108). Sau khi chửi quanh các lọai chuột bẩn thỉu
nhất, Huệ Nhật lại viết: “Có hai con chuột áo
vàng nằm trong Mặt Trận GPMN là hai ḥa thượng
đỏ Thích Thiện Hào và Thích Minh Nguyệt. Sau nầy
người ta hai vị đại lăo ḥa thượng nầy là đảng
viên đảng Cộng Sản Việt Nam. Học có con, dâu rể
đùm đống đầy đàn... Cộng sản đă mặc áo cà sa cho
đảng viên lên lănh đạo tôn giáo.” (Trang 109)
Lần thứ ba vào cuối năm 1964, tại Nha Trang Huệ
Nhật lại xin tự thiêu, đă không được ai coi ra
ǵ lại bị mang một tên mới là “Thánh Chuối” v́
bị người dân thường và giới tu sĩ coi như một
tên vô lại. V́ vậy, như Huệ Nhật đă ghi lại:
“Khi nh́n biết một sự ganh ghét xấu xa, những
hành vi gỉa h́nh của người tu sĩ thuộc bậc anh,
bậc thầy của ḿnh, anh có cảm giác gớm ghiếc,
khinh bạc và nghĩ đến cái chết để được giải
thoát. Anh cảm thấy cần một cái chết để giải
quyết những hậu quả phiền toái về sự sống sót
của anh.” (Trang 258). Những trang tiếp theo,
Huệ Nhật đă dùng đến những lời lẽ thô thiển nhất
để thóa mạ hầu hết hàng ḥa thượng, thượng tọa
lănh đạo cao cấp của Phật giáo c̣n tại thế hay
đă viên tịch. (Xin xem từ trang 246 đến 273)
2. NGUYỄN HUỆ NHẬT ĐĂ ĐẢ PHÁ PHẬT GIÁO NHƯ THẾ
NÀO?
Phương pháp đả phá Phật Giáo của Huệ Nhật là lối
dùng h́nh thức so sánh và tương phản (contrast)
trong luận lư học cổ điển. Anh đă dùng tiền đề
phủ định để phang thẳng vào Phật giáo và hậu
luận minh họa kết hợp với suy diễn để biện minh
cho sự sáng suốt, ưu việt của anh “xù Phật, theo
Chúa”.
Để giải thích cho hành động bỏ đạo Phật theo đạo
Chúa của ḿnh, Huệ Nhật tự so sánh ḿnh cũng
giống như đức Phật Thích Ca và đức chúa Giê-Su:
“Khi em nói tới chữ lừa thầy phản đạo là đă bày
tỏ một tinh thần hẹp ḥi, nông cạn, không hiểu
ǵ về ư nghĩa của đạo. Anh phải nhắc lại một lần
nữa là chính Đức Thích Ca cũng đă mang tiếng lừa
thầy phản đạo sau khi rời bỏ con đường tu khổ
hạnh với năm anh em Kiều Trần Như, Ác Bệ, Ác Đà...
Một trong những lư do mà nhóm thầy tu Biệt Phái
(Pha-ri-si) kết án chúa Jesus để đóng đinh Ngài
cũng là v́ họ cho rằng Chúa Jesus đă hủy bỏ
truyền thống có sẵn trong đạo Do Thái (phản đạo)!”
(Trang 289). Rơ ràng là Huệ Nhật muốn xây dựng
luận điểm rằng anh bỏ đạo Phật qua đạo Chúa v́
đạo Phật không phải là chánh đạo: “Đối với những
bậc thầy của Ngài như năm anh em Kiều Trần Như,
Ác Bệ, Ác Đà... Ngài cũng ĺa bỏ khi nhận ra
rằng những người nầy không dạy cho ḿnh chánh
đạo.” (Trang 288) Nhưng không rơ v́ không thuộc
bài hay quẩn trí v́ cố biện minh cho cái tôi đă
quá tả tơi của ḿnh, anh “phang” luôn cả đạo
Chúa: “Anh tin Chúa trong hoàn cảnh bị CS khủng
bố, chứ không phải tin Chúa để kiếm mùng mền cơm
gạo như nhiều người Việt Nam trong Chiến Tranh.
Những người Việt Nam đă theo Chúa v́ muốn có
hàng viện trợ của Mỹ ngày xưa chẳng có phước
hạnh ǵ hơn.” (Trang 289).
Huệ Nhật đă lửng lơ mô tả hàng ngũ tu sĩ Phật
Giáo như người ngu độn rằng: “Cũng có những
người ăn cơm chùa từ khi c̣n rất nhỏ, nhưng trí
óc thuộc loại độn căn; học thêm một chữ là đă
quên đi hai chữ, v́ thế khi lớn lên chỉ ở trong
chùa, dù rất muốn ra đời cũng không dám ra. Ngày
nay những người ấy trở thành những bậc sa môn.
Chễm chệ làm ông thầy. Chỉ ngồi niệm hai chữ Nam
Mô là cả vạn người nghe theo dâng đầy tiền của.
Tu lâu phải thành sư cụ. Anh bước ra khỏi chùa
để sống thật với con người ḿnh hơn.” (Trang
288)
Huệ Nhật phản bác đạo Phật một cách hơi bất
thường v́ sự đơn giản và dễ dăi như là: “Phật
giáo rất rộng nên đúng và sai không có biên giới.
Có khi bỏ Phật mà lại đúng hơn là cứ đường đường
theo đạo Phật một cách hữu sắc vô hương. Phật
Giáo là một tôn giáo có nhiều giáo lư mênh mông
bát ngát đến nỗi người đi theo có khi đă đi lạc
đường gần hết một đời mà vẫn không biết. Nhưng
đức tin đi trong Chúa là đi trong Đường Hẹp,
bước ra khỏi Kinh Thánh là thấy lạc đường ngay.
Ngày nay có một số giáo hội vẫn thờ Chúa, nhưng
không làm theo kinh Thánh. Nhiều tín đồ của họ
không hiểu ǵ về Đấng mà họ thờ cả.” (Trang 171)
Và Huệ Nhật đă lái (hay dựng đứng) chuyện bôi
bác riêng tư của gia đ́nh anh thành chuyện ô uế
trong giới tu sĩ Phật Giáo: “Nghiệm thấy con
đường đi tu không dễ ǵ t́m ra chân lư , anh cởi
áo tu để mặc lại chiếc áo người phàm., chiếc
quần người trần tục. Một năm sau khi cởi áo thôi
tu. anh lập gia đ́nh, nhưng bị một người bạn
đang làm đại đức đến nhà ngủ ké với vợ ḿnh.” (Trang
74)
Huệ Nhật cũng liều lĩnh đưa ra một con số tưởng
tượng điên cuồng mà anh ta tưởng là sẽ không c̣n
ai kiểm chứng được: “V́ yêu các vị tu sĩ Phật
Giáo mà anh rất lấy làm đau xót và tức giận khi
được đọc hồ sơ của 240 vị sĩ quan tuyên úy Phật
Giáo trong quân lực VNCH. Trong 240 vị đă có
trên 225 vị bị lính viết thư tố cáo lên nha
tuyên úy Phật giáo về việc thầy thích ăn chơi,
c̣n hầu hết đều có dính vào những chuyện phù
phiếm tào lao điên khùng khác” (Trang 209)
Nói tóm lại là Huệ Nhật đă tung hỏa mù, dựng
chuyện, tưởng tượng, bôi tro trát trấu lên mặt
các nhà tu và Phật Giáo bất cứ lúc nào và chỗ
nào có thể chen vào được để chứng minh cho sự
tuân phục, “giác ngộ”, nhiệt thành của anh với
đạo Chúa.
Ai đă từng chực chờ một cách tuyệt vọng trong
các trại ty nạn sẽ không lạ lùng ǵ “con chiên”
nhiệt thành một cách gần như hoảng loạn đối với
các tổ chức Tôn giáo mà họ hy vọng là sẽ dàn xếp
cho họ một cơ hội định cư ở nước thứ ba. Có lẽ
Huệ Nhật cũng đang ở vào t́nh cảnh đó trong hơn
cả năm nay tại nước Đức.
Người Việt, mà nhất là người Việt tỵ nạn đă quá
chán ngán và mệt mơi v́ những tṛ “lập lờ tôn
giáo”. Ai đă từng qua trại tỵ nạn Bataan ở Phi
Luật Tân trong những năm 80 đều biết nhà sư áo
vàng người Anh, xưng là thượng tọa Bhiayana. Ông
ta thường tụ tập Phật Tử ở chùa Vùng 3 và Vùng 8
để diễn thuyết rằng, ḍng dơi lâu đời, cha mẹ và
bản thân ông ta là Mục sư Tin Lành, nhưng ông đă
“giác ngộ” và bỏ Tin Lành theo Phật Giáo. Càng
ngày, những Phật tử có thiện tâm càng cảm thấy
khó chịu và xa dần ông ta v́ những lời rao giảng
nhằm ca ngợi tôn giáo nầy, đả kích tôn giáo khác.
Tôi c̣n nhớ trong dịp lễ Phật Đản năm 1983 tại
Bataan, một Phật tử cao niên, ông Nguyễn Chí
Hiếu đă nói thẳng với nhà sư Bhiayana (tôi là
người thông dịch) rằng: “Tôn giáo là những ḍng
sông cùng chảy về biển lớn chứ không phải là
những gáo nước ngu muội để tạt vào nhau. Xin ông
vui ḷng chấm dứt cái tṛ dùng ông Chúa và ông
Phật tưởng tượng nhỏ bé trong đầu ông để đưa lên
đây mà đấu đá nhau!”
tôn
giáo - phật giáo
trankiemdoan.net
|