
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ mới qua đời tại Mỹ, hưởng Thọ 102 tuổi (theo lịch Âm là 103 tuổi). Ông là hàng nhà văn tiền bối cuối cùng trong thế hệ Chiến tranh Việt Nam vừa ra đi. Ông vừa là nhà văn, vừa là nhà giáo và cho rằng dạy học là nghề, viết văn là nghiệp. Như thế trong nhãn quan Phật giáo thì phải chăng văn chương là duyên và tác phẩm là “nợ” như khái niệm “duyên nợ trần ai” giữa đời thường.
Trong bối cảnh cuộc chiến Việt Nam, nhà giáo chỉ đứng trên bục giảng của một khung cảnh xã hội nhất định; nhưng là nhà văn thì phải đứng giữa hai lằn đạn của khuynh hướng chính trị và nhân sinh “bên này Pyrenees là chân lý bên kia là sai lầm” nên nhà văn phải cầm ngọn bút dựa trên liêm sỉ của tâm hồn mà đứng dậy. Đặc biệt Doãn Quốc Sỹ xuất thân từ miền Bắc, vào Nam, rồi qua Mỹ giữa trùng điệp Trường Sơn và Pyrenees – cả chân lý lẫn sai lầm – để tồn tại không phải là một sự xác định hiện sinh đơn thuần mà là một hành giả… vào thiền: Âm trầm, khí phách mà lặng lẽ bởi “kiến tánh” để về với chính mình, tiếp cận đạo lý nhân sinh và thong dong đi giữa cuộc đời lắm đê điều, be bờ chắn lối.
Văn chương như duyên:
Ông không chọn văn như một con đường chính để sống; ông chọn nó bằng mối xúc cảm, bằng tâm niệm, bằng những gắn kết nội tại với đời. Có thể nói, văn chương đến với ông như một duyên lớn: duyên với ngôn từ, duyên với thời cuộc, duyên với nỗi đau cá nhân và cộng đồng. Duyên ấy không dễ nhận biết, không dễ đếm được, nhưng một khi đã bám sâu trong tâm thức, nó dẫn lối để người ấy phải cầm bút, dõi nhìn.
Sự nghiệp là nợ:
Sự nghiệp – dạy học và những vai trò xã hội – là cái ông gánh vác trong đời. Người thầy có trách nhiệm, người nhà giáo chịu gánh nặng cho lớp trẻ, cho nền học thuật. Trong Phật học, “nợ” chẳng phải là cái xấu; nợ là trách nhiệm: nợ tổ tiên, nợ nhân sinh, nợ chữ nghĩa, nợ chúng sinh. Ông mang nợ ấy không hờ hững, không tầm thường; ông trả lời nó bằng tận tâm, bằng sự vững vàng, bằng lòng kiên nhẫn suốt nhiều thập niên.
Giao hòa duyên – nghiệp:
Với Doãn Quốc Sỹ, dạy học không tách rời văn chương. Dạy học là cách thắp lên ngọn đèn cho người khác; văn chương là cách ông đốt lên ánh lửa in lại vào tâm người đọc. Hai cái ấy giao nhau, không song hành riêng rẽ. Nếu văn chương chỉ là duyên, nó mong manh dễ trôi khi duyên hết. Nếu sự nghiệp chỉ là nợ, nó có thể biến thành oán than nếu không có ý thức hướng thiện. Ông đã vừa giữ duyên văn chương, vừa gánh nợ sự nghiệp; và phải chăng đó là cách người trí nên sống theo hướng nhìn Phật, vào thiền, lấy tinh thần “tự độ, độ tha” làm kim chỉ nam giữa dòng sống muôn vạn nẻo đường.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ là tác giả của hơn 15 tác phẩm văn chương, văn học và khảo luận mang tầm vóc quốc gia và quốc tế. Là nhà giáo, ông từng du học, tu nghiệp ở Hoa Kỳ và làm giáo sư tại các trường trung học Hà Nội, Sài Gòn và Đại học Sư Phạm, Văn Khoa Sài Gòn từ đầu những năm 1960. Khuynh hướng sáng tác văn chương của nhà văn Doãn Quốc Sỹ mang đậm tính nhân bản, tâm linh và hiện sinh, thể hiện qua ba tầm mức sau đây:
- Khuynh hướng nhân bản: Bảo lưu phẩm giá con người
Doãn Quốc Sỹ luôn nhìn con người trong mối quan hệ giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa lý tưởng và sa ngã: Nhân vật trong các truyện như Khu Rừng Lau, U Ám, Gió Trên Đảo Kinh, Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều… thường là những con người nhỏ bé nhưng không buông xuôi, luôn hướng về cái đẹp, cái thiện dù phải chịu đau thương. Ông coi con người là trung tâm của mọi bi kịch và cứu rỗi. Đó là một khuynh hướng nhân bản tích cực đậm tính hiện sinh Việt Nam. Hiện sinh không mang dấu ấn của hoài nghi tuyệt vọng đầy lý tính phương Tây mà rất gần với tinh thần phá chấp Phật giáo và tự tại Thằng Bờm dân gian Việt Nam.
- Khuynh hướng tâm linh: Phật học và hướng nội
Trong số 15 tác phẩm sáng giá của nhà văn Doãn Quốc Sỹ, cuốn Vào Thiền là tác phẩm mỏng nhất (dưới 100 trang) nhưng lại là tác phẩm tái bản nhiều lần nhất. Vào Thiền xuất bản năm 1970 với nội dung là những giai thoại và tùy bút về Thiền như: Lời Thiền, Đạo Thiền, Hư Vô và Thực Tại “Ai hay không có – có không là gì?”…
Tư tưởng Phật giáo của Doãn Quốc Sỹ được thể hiện qua những suy tư “vào thiền” trong tác phẩm không rao giảng giáo lý Thiền mà để sự tỉnh thức đến với Thiền; mời gọi độc giả cùng sống với các nhân vật tự chiêm nghiệm nỗi khổ, sự vô thường và con đường giải thoát bằng tâm an lạc, trí sáng soi, lòng từ ái. Nội dung mang nét tĩnh lặng, hướng nội, thẩm nhập chiều sâu thiền quán giữa khung cảnh chiến tranh cũng như hòa bình và ngay giữa vòng tao loạn. Phong vị văn chương trong Vào Thiền khác hẳn với dòng văn chương hiện sinh, hoài nghi, bất chấp, nổi loạn đầy tính chất đô thị ồn ào thời thượng đương thời.
- Khuynh hướng hiện sinh: Căn bản đạo lý dân tộc
Sau 1954, trong bối cảnh chia cắt và khủng hoảng tinh thần, văn chương Doãn Quốc Sỹ đặt vấn đề “làm người giữa thời phi nhân”. Nhưng khác với chủ nghĩa hiện sinh u ám, trầm tịch của Sartre hay Camus, Doãn Quốc Sỹ không tuyệt vọng, hướng tới hiện sinh cứu rỗi: Con người nhận diện bản ngã trong khổ đau và bằng tình thương vẫn có thể sống trọn đạo làm người Việt Nam giữa mọi hoàn cảnh, đem sự yên ắng trong chính mình để đối diện với bao nỗi lao đao ngoài xã hội.
Tính Thiền trong cõi Phật, tất cả đều là duyên trần. Cái gì do duyên sinh, cái ấy cũng do duyên diệt. Vì vậy, hợp hay tan đều chỉ là hai trạng thái tạm thời của dòng duyên sinh vô thường, không có gì cố định hay vĩnh cửu. Hiểu được vậy là bước đầu của trí tuệ buông xả. Còn duyên thì gặp, hết duyên thì chia nên sự nghiệp cho dù lớn lao đến mấy, cũng chỉ là khúc quanh trong dòng vô thường. Nên duyên nợ văn chương riêng một góc trời nghệ thuật như Doãn Quốc Sỹ, đem bút vào thiền không phải là cách nói ước lệ, mà là bản tâm, là nội quan soi chiếu cả đời.
Viết giữa chiến tranh, hậu chiến, hải ngoại, nhân vật cũng như hoàn cảnh sống giữa lịch sử nhiều biến động mà vẫn mang được nét như như tịnh không là bài toán khó. Đôi khi văn chương phải đối mặt với áp lực chính trị, kiểm duyệt, định kiến, cường quyền nên cần “tiến những bước lùi” để giữ cái nhân. Chất Thiền trong cuộc sống lắm lúc vô hình vô ảnh; cuộc hành trình cũng là hành hương trong thanh tịnh nhưng nhà văn đã trải nghiệm bao điều sinh diệt trong từng nháy mắt trên đường sáng tạo. Vị Thiền đầy ý nghĩa trong tác phẩm văn chương của Doãn Quốc Sỹ là không chạy đua với thời thịnh sự. Ông là một nhà văn thiên về chiều sâu, từ tốn, không bám theo xu hướng thị trường, không chạy theo cái danh, không đánh đổi tính chân thật để được nổi bật; ông giữ vững lập trường văn chương của mình, giữ cái chất đặc thù của người trải nghiệm nhiều tầng lớp biến động.
Khi nhà văn Doãn Quốc Sỹ phát hành Vào Thiền vào năm 1970 là thời điểm tôi tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Huế và đang sinh hoạt với nhóm Thiền học của Liên Gia Đình Phật Tử Thừa Thiên Huế, thường vẫn lấy tư tưởng Thiền Luận của Suzuki và sách báo Phật học của Đại học Vạn Hạnh với những tên tuổi của các tu sĩ và trí thức Phật giáo như quý thầy Thiên Ân, Minh Châu, Nhất Hạnh, Tuệ Sỹ, Trí Siêu…; Nguyễn Đăng Thục, Phạm Công Thiện… Chúng tôi nắm bắt ngay cơ hội tác phẩm Vào Thiền vừa mới xuất bản để làm tài liệu tham khảo cho các đạo hữu trong nhóm. Nhưng mãi đến khi qua Mỹ, tôi mới có thiện duyên gặp được tác giả hai lần: Một lần tại Santa Ana với sự hiện diện của nhiều nhà văn, nhà báo và một lần tại Escondido trong khóa tu học Mở Cửa Trái Tim có Thầy Thích Nhất Hạnh chủ trì. Với Doãn Quốc Sỹ, con người và tác phẩm, nghệ thuật và nhân sinh, ngôn từ và tâm đạo là một; đọc tác phẩm cũng như đối diện với chính tác giả bằng xương bằng thịt: nét tài hoa, sự khiêm tốn và tinh thần trí tuệ, từ bi là chân dung của nhà văn vừa vĩnh biệt.
Với tuổi đời đại thượng thọ, nhà văn, nhà giáo Doãn Quốc Sỹ ra đi như lá rụng về cội, tâm đạo về thiền. Thế hệ kế thừa chỉ mong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông được sớm dịch ra tiếng Anh, không phải ở tầm mức “thông ngôn” của Google hay Trí tuệ Nhân tạo mà phải là ngôn ngữ chuyên đề của văn chương nghệ thuật. Ông ra đi giữa mùa Thu: lá rụng về cội và về thiền là hòa nhập thể tánh; không lại hoàn không.
Sacramento, Thu 2025
Trần Kiêm Đoàn
