Để tái hiện quê hương qua từng thời kì từ quá khứ, chúng tôi đã mời những người con của làng ở nhiều độ tuổi khác nhau, tham gia bài cho tập Lược sử bằng tình cảm thiết tha nhớ về nguồn cội. Đọc xong mục này, chúng tôi tin rằng với những người cao niên đã từng gắn bó với làng thì “người xưa, cảnh cũ” sẽ hiện về trong tâm trí; với lớp trẻ sẽ hiểu được, biết được ngày xưa tình làng nghĩa xóm, con người và cảnh vật làng mình là như thế đó.
1. Tái hiện hình ảnh quê hương
Chuyện làng tôi
BBS: Anh Nguyễn Văn Chánh gởi đến chúng tôi ngót hai tập vở học trò viết tay. Nhiều dữ liệu của anh, chúng tôi dùng bổ khuyết thông tin vào các trang trong tập Lược sử, phần còn lại chúng tôi tập hợp thành bài viết này.
Đây là một bài viết có nội dung mang tinh thần “đất lề quê thói” rất gần gũi và thú vị với bà con nông dân chân đất làng Liễu Cốc Hạ mình. BBS đã xin phép tác giả biên tập lại cho phù hợp với giới hạn số lượng trang viết và văn phong của toàn tập Lược Sử. Xin trân trọng giới thiệu với bà con.
Đầu năm 2023, làng Liễu Cốc Hạ đã có một công viên nằm ở đầu làng. Công viên có quy mô nhỏ, nhưng nhờ nằm cặp bờ sông và biết thiết kế nên đã tạo được cảnh quan hài hoà, toát lên vẻ yên bình vốn có của một làng quê. “Từ đây bà con mình đã có chỗ thư giãn, tập thể dục, trẻ em có nơi vui chơi giải trí”, đó là lời ông Nguyễn Văn Phò, người đã bỏ kinh phí ra xây dựng công viên này, hồ hởi nói với bà con trong ngày khánh thành.
Điểm nhấn của công viên này là có một tiểu cảnh được tạo bằng nhiều hòn đá khá đẹp. Ở giữa mặt hòn đá chủ nằm trước tiểu cảnh có khắc dòng chữ: “Di tích Phố Xưa làng Liễu Cốc Hạ”. Dòng chữ đã làm cho những người ở độ tuổi U70 bần thần nhớ về thuở xưa làng mình có một xóm Phố nằm ở nơi đây.
Trước những năm 1960, xóm Phố chỉ có mấy quán nhà xây bằng táp lô nằm cặp bờ sông. Nếu tính từ cầu Banh Trên đi xuống hướng cổng làng thì quán O Sâu đầu tiên. Phía bên trái quán o là cây bàng cổ thụ to, cao lắm! Trừ mùa Đông là cây bàng rụng lá trơ cành, ba mùa còn lại cây lúc nào cũng xanh tươi, quyến rũ chim chóc và lũ học trò dừng chân tìm hương vị chát chát, ngọt ngọt của trái bàng chín. Ngay phía sau quán o Sâu là cây sung thuộc loại cổ thụ. Thân cây nghiêng hẳn ra ngoài sông, là nơi tu tập mỗi chiều của những cô cậu học trò nghịch ngợm, leo lên cao chót vót rồi nhảy tùm xuống sông nghịch nước. Quán O Sâu chuyên bán đồ tạp hoá. Nói cho “oai” vậy thôi chớ mặt hàng o bán chỉ đếm trên đầu ngón tay. Những thứ mà các bà nội trợ nông dân cần thiết như ruốc, nước mắm, muối, dầu hoả. Và làm cho các cô cậu học trò trường Làng mỗi khi đi ngang qua quán, chân bước mà mắt không rời các thẩu kẹo Noga, kẹo cau, kẹo gừng để sát cửa quán…
Kế tiếp, cách quán O Sâu chừng chục mét là bến nước để cho bà con tắm, giặt mỗi chiều. Cái bến này luôn có các thuyền buôn neo đậu. Những mặt hàng khách thương hồ bán cho bà con quê mình thường là mắm, muối, lu, vại, vôi, phân tro bón ruộng… Qua bến nước một đoạn là nhà ông Trưởng Đài. Tôi còn nhớ rất rõ đằng sau nhà ông Đài có một bụi tre la ngà to và rậm rạp. Ngoài công năng chính là chống sạt lở và ngăn gió bão, bụi tre còn là nơi đặt trộ dòm để đâm cá của vài người có tay sát ngư trong làng như ông Lào, ông Thợ Mực… Nhà ông Trưởng Đài dù ở mặt phố nhưng không thấy buôn bán gì.
Bước qua nhà ông Trưởng Đài bên trái độ chục mét là cái cổng làng, rồi đến nhà ông thợ Xứng. Ông Thợ Xứng quê ở làng La Chữ. Ông lấy vợ người làng mình là O Kiến. Ông là một thợ may giỏi, mặt vuông vức, người cao lớn, có tật hay nói với khách hàng câu: “Cà rừng… đà… hiện ra thành thử… bất tất di dẫn…” (nghĩa là chuyện xảy ra không thể tránh khỏi). Ngoài việc may vá, ông còn đào tạo cho làng mình nhiều người thành thợ may giỏi.
Phía trong cầu Banh Dưới, ở đầu xóm Kên (nhà o Thú bây giờ) là lò rèn và cũng là nhà của ông thợ Mực. Hai ông bà quê ở làng Hiền Lương, một làng nổi tiếng về nghề rèn.
Làng mình không có những nghề cần thiết như rèn và thợ may, nên Hội đồng hương thôn thời ấy cấp đất, mời hai ông thợ Xứng và thợ Mực ở ngụ cư.
Hồi đó, đằng sau đình làng là ngôi nhà hai gian dùng làm trường sơ học. Phía sau là chái giữ đồ đám tang. Một quán cúp tóc (hớt tóc) ở bên cạnh. Xa xa chừng 50 mét là bốn cột xai dùng để trói người phạm tội hiếp dâm. Đặc biệt là bọn trộm cướp trong và ngoài làng bị tuần đinh bắt được rất đông, có khi Lý trưởng cho đóng thêm nhiều cột xai nữa mới đủ chỗ trói phạm nhân nhằm răn đe kẻ bất lương.
Xóm Phố tuy nhỏ và đơn sơ như vậy nhưng đáp ứng đủ nhu cầu hoạt động cần thiết cho một làng quê dân dã như làng mình. Có thể nói, xóm Phố là bộ mặt của làng. Và diện mạo của nó thay đổi theo từng thời vụ, mùa màng trong năm…
Vào ngày mùa, nếu có “đốt đuốc” tìm khắp xóm Phố cũng không kiếm được một người để tán chuyện gẫu, ngược lại vào lúc nông nhàn đàn ông hầu hết tập trung ra đầu làng giải trí, ngắm cảnh thuyền bè qua lại trên sông.
Người đi xa trở về, vừa bước vào cổng làng có thể cảm nhận được làng mình đang vào mùa vụ hay không qua tiếng đập đe gấp gáp hay khoan thai thoát ra từ lò rèn ông thợ Mực. Có khi tiếng đập đe lan xa đến cuối làng suốt đêm khuya thanh vắng. Đó là lúc cả gia đình ông thợ Mực phải làm việc thâu đem mới đáp ứng yêu cầu nông cụ sản xuất của người làng. Vợ chồng ông thợ Mực dáng nhỏ nhắn thanh thoát, nhưng lại làm nghề nặng nhọc gia truyền, không truyền bí quyết nghề cho người ngoài nên không có học trò.
Nếu ai đó quanh năm đầu tắt mặt tối hoặc thờ ơ với mùa Xuân thì xóm Phố sẽ nhắc nhở họ điều đó. Một trong những điều người làng Liễu Hạ cảm nhận mùa Xuân đang đến gần là khi ngoài xốm Phố những cành bàng khẳng khiu đã nhú nụ và qua nhịp độ hoạt động ở trong quán may ông Xứng. Đầu tháng Chạp là quán may chong đèn sáng trưng từ chạng vạng cho đến khi gà gáy sáng. Tiếng rè rè máy may thâu đêm suốt sáng nhưng cũng không tránh khỏi câu “cà rừng… là… mà…” của ông thợ Xứng khi khách hàng than vãn bị trễ hẹn giao hàng….
Vào dịp lễ lượt, hội hè, làng tế hay Tết nhất… xóm Phố trở nên rộn ràng đông vui hơn cả. Cuốn hút mọi người hơn cả là các bàn xóc bầu cua, bài vụ, nhất lục, bài chòi… Ngày thường, nơi đây cũng đông vui nhất làng với nhiều sự kiện như đám cưới, hội ngộ trùng phùng của bà con bao năm xa cách; học hành đỗ đạt trở về làng vinh quy bái tổ…
Sau năm 1975, người xa quê trở về làng sinh sống rất đông. Đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của người làng, có nhiều người đã mở thêm quán tạp hoá, may vá ở xóm Phố. Quán mụ Mót làm bằng vật liệu tranh tre nằm sát bờ sông, cạnh cây bàng, phía trên quán O Sâu một đoạn. Quán may O Thương; quán tạp hoá vợ chồng ông Quyết ở bên kia đường, cạnh cầu Banh Dưới. Quán anh Sinh, chị Lướt nằm sát cổng xóm Kênh… Cứ chiều chiều, sau giờ làm đồng là bà con lại ra các bến sông ở xóm Phố tắm giặt, gánh nước, mua bán… làm cho không khí đầu làng trở nên đông vui, rộn ràng hơn.
Tuy nhiên, có một điều lạ là mỗi khi đi xa, người làng không nhớ về xóm Phố mà nhớ bụi tre cầu Lừ! Câu cửa miệng của người làng sau một thời gian sống xa làng khi trở về bao giờ cũng “đi mô cũng nhớ về Liễu Hạ, nhớ da diết bụi tre cầu Lừ”!
Tại sao lại nhớ bụi tre cầu Lừ mà không phải địa danh nào khác? Điều này chỉ có những người đã từng quanh năm dãi dầm mưa nắng trên cánh đồng làng; có tấm lòng tha thiết yêu quê hương làng nước; sống với dân làng tắt lửa tối đèn có nhau thì khi xa làng mới cảm nhận được. Cầu Lừ là chiếc cầu bắc qua con hói chính, trên trục đường đi từ cồn Quán qua khoảnh ruộng Đô Vân. Cạnh mố cầu hướng về làng, thuở xưa khi còn là chiếc cầu khỉ các cụ nhà ta đã trồng một bụi tre ở đó. Giữa cánh đồng đầy nắng gió ấy, bụi tre cố vươn mình tạo bóng mát cho người và vật (trâu) núp nắng. Từ xa, bụi tre nổi bật lên trên cánh đồng mà bất cứ ai ra đồng cũng nhìn thấy. Vào mùa Hè, nắng rát da thịt, bụi tre là điểm dừng chân, là nơi nghỉ ngơi, núp nắng của bà con làm việc trên cánh đồng mỗi khi đi ngang qua. Đặt gánh nặng trên vai xuống (trừ gánh lúa chưa tuốt), gỡ chiếc nón cời ra quạt cho ráo mồ hôi. Ngồi bên nhau, mời nhau vấn một điếu thuốc ngọn, một cốc nước chè cho vơi mệt nhọc càng làm thắm đượm tình nghĩa quê nhà với nhau.
Tận sâu thẳm tâm tư mỗi con người, dẫu sau này có giàu sang đi nữa cũng khắc ghi hình ảnh thời gian khó. Bởi trong gian khó, con người mới thật sự sống với nhau bằng tình cảm chân thật. Và bụi tre dẫu là cây cỏ nhưng lại là nơi gắn bó cuộc đời những người sống trên cánh đồng làng thời đó. Mỗi khi nhớ đến cái thời gian lao mà bình dị, đằm thắm nghĩa tình thì hình ảnh bụi tre cầu Lừ hiện lên trong tâm trí họ là điều không khó hiểu.
Làng mình có chú X sống một đời chăn trâu, cắt cỏ trên cánh đồng làng. Khi chú bị bắt đi lính, dù không biết chữ cũng nằng nặc nhờ bạn viết mấy dòng về thăm cha mạ như sau: “Đi mô con cũng nhớ về Liễu Hạ – Con nhớ cha, nhớ mạ, nhớ bụi tre cầu Lừ – Răng chừ biết tới răng chừ – về thăm cha mạ, cho con ra ngủ cầu Lừ một đêm”!.
Đó là chuyện bụi tre cầu Lừ. Còn con người của làng Liễu Cốc Hạ cũng rất đặc biệt! Bà con sống xa làng, mỗi khi gặp nhau lại đem bài đồng dao một thời chăn trâu, cắt cỏ của mình ra nói vè cho đỡ nhớ làng, bài vè ấy tôi còn nhớ như sau:
Nghe vẻ nghe ve
Nghe vè Liễu Hạ
Ông Trưởng phất phất
Ông Bách cười lạt
Ông Trác nảy đờn
Ông Mơn trạc rọt
…
Ông Cánh Bàu Lộ
Ông Bộ lấy mụ Bơi
Trời mưa trời lụt
Xóm Cụt gần xóm Côi
Ông cai nhỏ hơn ông đội
Ông nội con ông cố…
Cứ thế, họ ngồi nói chuyện về làng với nhau suốt đêm không hết…
Làng ta có nhiều chuyện vui lắm! Cuối thế kỷ 19, người trong làng bị bắt đi lính rất nhiều. Chú X. không biết chữ cũng phải nhập ngũ. Chú vào đơn vị huấn luyện gặp đồng hương cùng làng, liền nhờ người này viết thư về thăm gia đình cho cha mạ bớt lo lắng. Thư về, bà con nội, ngoại bên chú ai cũng khen cái thằng mù chữ mà nói năng lễ phép, đàng hoàng hơn cả đứa có học. Được thể, lần sau chú nhờ người này viết thư về nhà thăm gia đình bên vợ và khấp khởi chờ đợi những lời hồi âm đầy tốt đẹp như lần trước.
Ai ngờ, nhận được thư thằng con rể, cha mẹ vợ chú X. tức tốc chạy qua nhà cha mẹ ruột chú X. mắng như tát nước. Người anh con ông bác của chú X. biết chữ, đọc lá thư xong, thất kinh và hết lòng năn nỉ: “Thưa hai bác, em tôi là con rể của hai bác. Hai bác biết hắn là đứa không biết chữ mà. Do nhà nghèo không được đi học mới ra nông nỗi này. Mong hai bác bỏ qua cho…”.
Người giúp chú X. viết thư lần này thật là quá nghịch ngợm. Chú đọc một đường người này viết một nẻo. Thư chú bị thay lại lời như ri ai mà không chửi: “Tôi viết thư này về thăm ông gia ba đạp, mụ nhạc sáu loi, trong nhà mỗi người mỗi trọi. Tôi ở trong này mạnh khỏe thường luôn, khi mô về phép tôi đập tuồng luông cả nhà!”.
Ở làng lâu lâu cũng có vài vụ mất gà vịt. Một hôm có một mụ mù chữ, bỗng dưng hoá thành thi sĩ làm cho cả làng vô cùng ngỡ ngàng. Mụ xăn quần quá gối, đứng trước ngõ nhà mình cao giọng chửi như ri:
Ôn cha mồ tổ bây
Ăn chi đoản rứa bây ơi!
Gà tao gà mái hoa mơ
Sớm mơi còn đó chừ mất mô rồi
Gà tau trống tía lông vàng
Trưa còn chộ đó buổi chiều mất đi
Bây ăn chi không nghĩ không suy
Ông trời ông chộ chiếu vào mặt trăng
Đêm rằm bây gánh nước ngoài sông
Lộn cổ xuống bến, chết nhăn răng lộng chừng.
Bài “thơ” của mụ đã trở thành thời sự trong bữa cơm tối của người làng. Mụ chửi có vần có vẻ, mô tả rõ ràng hai con gà mình bị mất kèm theo lời nguyền độc địa khiến kẻ trộm và người nhà chột dạ nhìn nhau. Sáng hôm sau, cũng đứng trước ngõ nhà mình, mụ thông báo:
Bây ăn bây nuốt không vô
Cho nên mới thả gà tau trở về.
Quả là làng ta, có mạch đất phát triển thơ văn từ trong sâu thẳm tâm hồn mỗi người, nên mụ nớ mới xuất “chửi’… thành thơ đó chớ!?
Hồi đó vui nhất là cuối năm, nhà ai có đìa, có ao, có bàu thì đạp (tát cạn nước bằng xe đạp nước làm bằng guồng gỗ) cho khô để bắt cá ăn Tết. Mấy ngày trước đó, chủ đìa muốn thu hoạch nhiều cá thì phải rang cám hoặc hạ luôn tổ kiến trên cây tre xuống nướng luôn cả tổ đầy trứng và kiến mạ, kiến con cho thơm để nhữ cá vào ăn, rồi ngăn đập, đạp khô nước.
Những người không có đìa, muốn có cá ăn thì đi bắt mót. Chủ bắt đằng trước, con mót đi theo sau, mò những con cá chủ bắt sót hoặc chúi bùn. Có khi có vài con cá to từ phía chủ đang bắt vọt ra đằng sau, người bắt mót lập tức lao tới chụp, liền bị chủ đìa vác bùn đôi vào người nhớp hơn trâu lăn. Nhiều người quá thèm cá mà bất chấp, bị đôi bùn vào người nhìn tội lắm. Tuy nhiên, cuối buổi đi bắt mót, mặt mày ai cũng hoan hỉ bởi “chiến lợi phẩm” trong oi ai cũng có, không nhiều thì ít, hứa hẹn một bữa cơm tối ngon miệng.
Hồi đó, các nhà trung nông, mỗi khi nhà có phương việc cần nhiều gạo ăn thì vào những đêm trăng sáng họ tổ chức hò giã gạo. Hò giã gạo là cơ hội cho nam thanh nữ tú trong và ngoài làng gặp nhau. Họ hò đối đáp thử tài đối ứng với nhau rồi nên duyên vợ chồng, vui lắm! Ngày trước, việc giải khuây, giải trí của bà con chỉ có hò chứ không hát như bây giờ. Hò giã gạo, hò đạp xe (guồng nước), hò cấy, làm cỏ cũng hò… hò cho quên đi nỗi nhọc nhằn của nhà nông.
Còn chuyện người làng sống với nhau thắm đầy tình nghĩa thì nhiều lắm! Lúc còn bé, tôi đã phải trải qua một trận đói tưởng chắc chết. Rồi tôi theo mạ tôi, chứng kiến việc làm của một người trong làng đối với dân làng làm tôi nhớ mãi. Đó là năm Nhâm Thìn thì phải. Sau một trận lụt lớn, tài sản của bà con trong làng bị trôi sạch. Vụ mùa năm ấy, chưa giáp hạt dân làng đã bị rơi vào tình cảnh “lúa vang vang đói vàng con mắt”. Thấy dân làng mình khốn khổ như vậy, ông Trần Kiêm Đoá (tức là cha của ông Trần Kiêm Thiện, Trần Kiêm Đoàn bây giờ…) đã cho bà con đến gặt năm sào lúa chín sớm của mình, chia nhau ăn để khỏi bị chết đói. Đó là một việc làm “miếng khi đói bằng gói khi no” khiến bà con thoát cảnh chết đói ngày ấy nhớ đời. Sau vụ gặt đó, bà con nhớ ơn, đội lúa tới nhà hoàn trả, nhưng ông khéo léo từ chối. Rất tiếc, người hiền như ông lại mất sớm. Bà con ai cũng thương tiếc, ở độ tuổi như tôi ai cũng còn nhớ chuyện này…
Nói chuyện “thi ân bất cần báo” người làng mình nhiều lắm. Các thế hệ trước lâu rồi tôi không còn nhớ, chỉ nhớ quý ông Trần Kiêm Đoá, Trần Kiêm Trình, Trần Kiêm Chí và gần đây là vợ chồng ông Trần Kiêm Mai, Nguyễn Văn Phò…
Bao thế hệ người làng được sinh sôi, nảy nở được khôn lớn, bảo tồn nòi giống như ngày nay, ngoài sự gia ân của Trời Phật, công lao sinh dưỡng của cha mẹ còn cần nhắc tới các công của mấy bà mụ đỡ đẻ…
Bà mụ thời xưa không học hành chi cả mà làm bằng cả tấm lòng nhân ái. Các bà sinh nở nhiều lần mà có kinh nghiệm, tự nguyện giúp đỡ các sản phụ vượt qua thời khắc khó khăn mà nhiều người vượt cạn tưởng như không qua khỏi.
Thời nào làng ta cũng có vài người. Họ nhiệt tình, can đảm, mát tay dìu tất cả con cháu người làng từ thế này đến thế hệ khác từ trong bụng mẹ ra luôn mẹ tròn con vuông.
Mạ tôi kể hôm chuyển bụng đẻ tôi, bà ngoại có mời bà mụ Cửu Ê đến nhà ngủ qua đêm. Cuộc vượt cạn của mạ tôi nhờ rứa mà được mỹ mãn. Thuở nhỏ, tôi là đứa trẻ can đảm và tò mò hơn các bạn cùng trang lứa. Tôi hay đi coi các bà mụ đỡ đẻ dìu các em bé ra từ bụng mạ, còn mấy bạn khác thì không dám. Sản phụ chuyển dạ đau quá cứ rên la eo éo, các bà mụ thì luôn miệng an ủi, vỗ về: “giỏi, giỏi… một, hai, ba rặn… rặn… rặn”, đến khi đứa bé thò đầu ra là bà chụp kéo ra liền, rồi vả vào mông cho khóc oe eo, rồi móc miệng, tắm sạch…
Giờ nghĩ lại mới thấy các bà mụ ngày xưa tay nghề giỏi và đạo đức quá cao cả. Không tiền bạc nhưng hễ nghe kêu, dẫu ngày hay đêm cũng có mặt kịp thời để sản phụ và người nhà an tâm. Tới ngày hài nhi đầy tháng, nhà giàu thì mua đầu heo cúng, cúng xong biếu bà mụ một nửa; nhà nghèo thì miếng thịt, chén rượu hoặc không có gì cũng xong. Các bà mụ luôn cười hề hề, chẳng nề hà khó nhọc, khi có người cần là đến. Cứ thế, việc sinh nở của người làng mình tiếp diễn từ ngày thành lập làng cho đến thời ông Diệm có trạm xá, nhà hộ sinh mới thôi. Làng ta có bà mụ Cửu Ê, bà mụ Hẹt… là người đỡ đẻ cho những người được sinh ra từ những năm 1970 về trước. Như tôi đây, sinh năm 1938 cũng được bà mụ Cửu Ê dìu ra từ bụng mạ mà.
Ngày trước có câu thành ngữ “Tam nam bất phú, ngũ nữ bất bần”. Nhiều người hiểu đó là câu định phận tâm linh: Gia đình nào sinh ra ba đứa con trai tất nhiên là sẽ không giàu. Ngược lại, sinh được năm đứa con gái đương nhiên sẽ không nghèo. Tuy nhiên, với những người sống ở thời trước như tôi, thì hiểu rằng không phải như rứa.
Trước tiên chuyện dựng vợ, gả chồng cho con cái ngày xưa là do cha mẹ định liệu từ viêc mai mối cho đến bỏ tiền của ra lo cưới xin.
Thời đó cha mạ đặt mô, con ngồi đó. Cha mạ nhà mô “văn minh” lắm mới hỏi con những câu đại loại như ri: “Mi lớn rồi, ưa đứa mô thì nói cho cha mạ nhờ người mai mối cho?”. Nếu được nhà gái chấp nhận thì nhà trai phải trải qua nhiều nghi lễ cưới, hỏi rất tốn kém. Đó là chuyện cả một quá trình kéo dài. Từ khi nhà gái nhận lễ ăn hỏi của nhà trai thông thường từ hai đến năm năm mới cho cưới. Trong thời gian này, nhà gái có công việc gì thì chàng rể tương lai phải có mặt, việc đó gọi là làm rể. Và nhà gái có giỗ chạp, Tết nhất, lễ lượt, phương việc gì nhà trai cũng đem gà, vịt, bánh trái… tới làm quà, gọi là lễ vật. Chuyện quan niệm “giàu có” ngày xưa là chỉ cần có một mái nhà chắc chắn và không thiếu ăn – vậy nhà nào có ba hoặc bốn anh con trai cưới vợ theo cách đó thì làm sao mà “giàu” được. Ngược lại, nhà mô có đến năm cô con gái, tức có năm anh con rể đến làm không công và ăn lễ vật thời gian dài như rứa thì răng mà thiếu ăn được.
Cũng vì phong tục ấy, cộng thêm có nhiều gia đình tham lam thách lễ cưới hỏi của nhà trai mà sau này cô dâu phải khổ luỵ một đời với mẹ chồng. Nhà chồng cho rằng mình bỏ tiền ra mua thì phải khai thác sức lao động của cô dâu để lấy lại của cải đã dâng cho nhà gái. Thế là cảnh làm dâu cơ cực của phụ nữ cứ thế tiếp diễn từ đời này sang đời khác, cho đến chế độ cách mạng thời nay mới chấm dứt hoàn toàn.
Tuy nhiên, ở làng ta có một chuyện hi hữu, ngược lại là nhà gái bị sạt nghiệp vì nhà trai trong chuyện cưới hỏi! Chuyện là ngày trước làng ta có ông Hương Bổn làm Lý trưởng đại phú, trâu bầy ruộng bức. Ông gả cô con gái tên Trần Thị T. cho chú rể Hồ Đức Ng. người bên làng Phe Kiền (Hương Cần). Đêm đầu tiên động phòng, chú rể hô hoán cô dâu bị thất trinh. Rồi cả nhà chú rể dựng giường lên kêu kiểm nã làng (thừa phát lại) đến lập vi bằng. Sau đó, nhà trai bắt nhà gái bồi thường một thành hai tất cả chi phí mà họ kê khai ra từ ngày nhà gái nhận lễ hỏi đến lễ cưới của họ. Té ra, vài năm sau mới biết nhà trai lợi dụng quy định hương ước thời phong kiến để hốt của nhà giàu!…
Nói về việc hiếu, tức là chuyện tang tế, các phong tục trong lãnh vực này thường được thực hiện theo cách người xưa để lại. Bây giờ ngồi tưởng lại: Mỗi lần trong làng có đám tang, chuyện tang lễ đương nhiên là của tang gia, tuy trách nhiệm di quan ra đồng thì làng giao cho họ hiếu đảm nhận. Đứng đầu họ hiếu là ông Chấp lệnh làng, sau đó là ông Cai giang hay còn gọi là quan áp tải. Ông Chấp lệnh đánh chiêng điều hành việc phúng điếu. Ông Cai giang điều khiển Âm công và dẫn đầu màn trình diễn nghi thức di quan còn gọi là diễu quan. Khởi đầu ông Cai giang và bốn ông đầu roi vào thăm quan để biết quan tài to hay nhỏ để liệu phương kế mà di quan.
Tại sao phải thăm quan trước? Bởi trước đây, có lần họ hiếu tiến hành di quan đám tang người nhà ông phú hộ trong làng thì gặp sự việc khác thường. Thông thường, khi thăm quan xong là bái quan rồi di quan. Nhưng khi thăm quan nhà phú hộ này thì phát hiện chiếc quan tài người quá cố được để trực tiếp trên nền nhà có đúc một thứ vữa bằng vôi khiến không thể đưa tay vào bên dưới mà nâng quan lên được. Thấy vậy, ông Cai giang cho Âm công tiếp tục cuộc lộn “Lăng xà tứ trụ” kéo dài từ tiết mục rắn làm tổ đến rắn quấn mồi… để có đủ thời gian cho bốn ông đầu roi (Tứ trụ) chạy đi lấy đục, chàng về đục lớp vữa bên dưới quan tài ra cho lọt bàn tay mà di quan.
Cuộc di quan hôm đó hoàn thành mỹ mãn. Và dĩ nhiên Hội hiếu được tang chủ thưởng cho một mâm cỗ xôi heo. Theo quy định xưa, nếu họ hiếu làm không tốt việc di quan, cho dù tang gia là dân hay quan, mỗi người trong họ hiếu cũng bị phạt một roi. Thuở xưa, việc được thưởng hay bị phạt đối với người làng luôn có giá trị đối ngược nhau. Bị phạt một roi vào mông, tuy không đau nhưng lại mất danh dự. Ngược lại được thưởng xôi heo, vừa được một bữa ăn ngon vừa được nâng tầm giá trị của họ hiếu lên một bậc, hãnh diện với họ hiếu làng khác lắm chứ!
Tại sao đám ma nào trước khi di quan cũng phải đi “Lăng xà, tứ trụ”? Đó là chuyện xưa bày nay làm thôi. Tuy nhiên, đã là Cai giang thì phải hiểu rõ ngọn nguồn lý do mà phổ biến cho người trong họ hiếu biết để thực hiện cho tốt. Theo truyền thuyết thì xác người nằm trong các quan tài dù hiền nhân hay trộm cướp, gian dâm, dối trá, tham quan, ác đức, hà hiếp người nghèo, người yếu thế… cũng có quỷ dữ, ác ma tới áp giữ linh hồn. Việc thực hiện nghi thức “Lăng xà, tứ trụ” là chiến đấu, đuổi quỷ dữ đi để linh hồn người chết được về ở với mồ yên mả đẹp, yên ổn nơi cõi vĩnh hằng.
Loài ma quái chuyên bắt linh hồn người chết chỉ có Mãng Xà Vương từ núi Thiên Bồng xuất hiện mới trừ khử được. Do đó trước khi di quan ông Cai giang và bốn ông Đầu roi cùng đoàn Âm công phải thực hiện hình ảnh Mãng Xà Vương uốn khúc hình chữ chi đủ bảy vòng rồi chuyển qua chữ nhất, chuyển tiếp qua tứ trụ. Tứ trụ biến thành hai hàng đảo qua, lại thành bốn hàng rồi lạy quan. Bái quan xong Âm công nhập thành hai hàng, rẽ qua hai bên thành chữ tứ để bốn góc quan tài hiện ra cho bốn vị quan tứ trụ (bốn ông đầu roi) đứng vào và bắt đầu di quan…
Thời trước, còn có tập tục người thân của người quá cố cứ nằm lót đường cho quan tài đi qua để thể hiện sự hiếu đạo với ông bà, cha mẹ. Mỗi khi Âm công gánh quan tài bước qua nơi họ nằm, họ lại chạy tới trước, tiếp tục nằm xuống đường cho đến lúc quan tài tới nơi an táng mới thôi. Đó là các cổ tục mà đến nay hầu hết đã mai một. Giờ đây, nghi thức tang lễ đa phần dựa vào sách Thọ Mai là chính.
Mình chiêm nghiệm và nhận ra cái gì có nói trong truyền thuyết đều thấy xuất hiện ngoài đời. Đời tôi đã ngoài tám mươi, từng làm Cai giang mấy chục năm, chứng kiến cảnh quan tài bị đứt dây néo là khi con cháu, ruột rà trong tang quyến xào xáo gây gổ, chia rẽ nhau. Hoặc lúc khởi sự di quan, con cháu quá thương tiếc người quá cố mà khóc lóc thảm thiết, quan tài đang bình thường bỗng dưng trở nặng khiến Âm công không tài nào nâng lên được…
Trên đây là những chuyện xảy ra ở làng mình. Tuổi già nhớ nhớ, quên quên, tôi kể lại để mọi người đọc biết chuyện xưa làng mình là như rứa, có gì chưa chính xác xin được hoan hỉ!
Liễu Cốc Hạ, tháng 12 năm 2022
Người ra đi mang cả giọng hò
(Trích từ tập sách “Thương nhớ miền Trung” của báo Thanh Niên ra ngày 27/11/2020)
Làng tôi là một làng thuần nông nằm ở vùng ngoại ô phía Bắc thành phố Huế – nơi mà hầu hết những người sống cùng thời với ba mạ tôi, đều biết cất lên tiếng hò ơ giãi bày tâm trạng vui, buồn của mình giữa trời cao, đất rộng.
Thời cắp sách đến trường, tôi đã ngẩn ngơ với tiếng hò của khách thương hồ xuôi, ngược trên dòng sông Bồ quê mình. Đang chèo thuyền, tức cảnh chiều rơi hoang hoải trên mặt sông, họ cất lên giọng hò mái nhì, mái đẩy nghe mà buồn man mác: “Hơ… ơ… gánh cực mà đổ trên non… ơ… quay lưng mà chạy… cực còn chạy theo… ơ hơ… thương cho cái kiếp nhà nghèo… quanh năm sông nước, phận bèo lênh đênh…!”. Không những thế, quê tôi hồi ấy vào những đêm trăng sáng, tiếng chày giã gạo nhặt khoan, cùng tiếng hò đối đáp của nam thanh, nữ tú trên sân đình hoặc một nhà nào đó lan xa cả làng. Nhưng trong tất cả giọng hò xứ Huế, tôi thích nhất là giọng hò ơ của bà con làm việc trên cánh đồng làng.
Ngày ấy mạ tôi thường lặn lội đồng sâu tối mịt mới về. Tan trường, tôi không muốn ở nhà một mình nên ôm cặp ra đồng đợi mạ về luôn thể. Trên đồng, cứ đến chiều là bà con cất tiếng hò ơ đối đáp nhau cho vơi đi mệt nhọc để làm xong công việc trong ngày. Đứng giữa cánh đồng làng mênh mông xanh ngát lúa thì con gái, tôi có cảm giác như đứng trước một sân khấu thiên nhiên, xem diễn về cuộc đời nhọc nhằn của bà con nông dân quê mình. Những câu hò đối đáp được cất lên từ những con người đang nhấp nhô trên ruộng lúa. Tôi còn nhớ giọng hò kim của một bác trai có dáng người lùn thấp, ve vãn một dì dáng cao thanh mảnh nhổ cỏ lúa gần đó: “Hơ… ơ… anh về thưa với mạ cha… mang cau trầu rượu tới nhà hỏi em… nghe… à…”. Dì ấy hò đáp lại: “Ơ… chồng thấp mà lấy vợ cao… chớ… mỗi khi “hôn hít” làm răng được hè?”. Bác trai ấy tếu cũng không vừa, hò lại: “Ơ… bởi em không biết đó nờ… ơ… khi hôn anh đè xuống chớ khó gì… hỡi em…”. Lời đối đáp của cả hai đã làm cho mọi người cười rân vui vẻ. Rõ ràng là “chương trình văn nghệ đại chúng” ấy, diễn ra giữa cánh đồng đã cuốn hút tôi quên đi cái bụng đang đói sôi rồn rột của mình.
Xa quê, thỉnh thoảng tôi lại “ới” bạn bè cùng cảnh ngộ lên sân thượng nhà mình “tửu đàm, nhạc luận” thư giãn. Đêm khuya trăng sáng và rượu ngon… càng làm tiếng hát hoài niệm về quê hương của chúng tôi thêm sâu lắng.
Bận nọ, hình như có nỗi niềm chi đó mà mạ tôi không ngủ được. Mạ lần mò lên sân thượng xem chúng tôi mần cái chi mà thức khuya dữ rứa. Thấy mạ, tôi đã lo thầm. Cũng may gặp lúc thằng bạn đang trải lòng với bài “Trách thân” xứ nẫu quê mình. Lời bài hát có giai điệu lạ, đặc biệt với ý tình hai câu cuối: “Anh bây chừ như con cuốc nó kêu tu oa. Nó lẻ đôi, nó lẻ bạn… ôi chu choa là buồn…” đã làm mạ tôi lặng người.
Đang đứng, bỗng mạ tôi ngồi xuống chiếu và nói: “Mệ hát một bài cho vui hỉ”! Chúng tôi chưa kịp hưởng ứng gì thì đã nghe một giọng hò cất lên vút cao. Rồi khi đạt độ trải lòng, mạ tôi cất thành lời: “Ơ… đêm khuya dưới ánh trăng tàn… ơ… nhìn trăng em nhớ ngày chàng ra đi… hơ… ơ… chàng đi lúc độ xuân thì… ơ… để em thương nhớ đến khi bạc đầu…”.
Trời ơi, mạ tôi gói gọn cuộc đời của mình sống trầm tư, héo hon theo năm tháng chỉ trong hai câu thơ mười bốn chữ! Mạ đã làm cho những thằng bạn của tôi chuyên cầm bút viết văn, viết báo ngẩn ngơ nhìn nhau thú vị. Chúng không ngờ một người đã già lại có giọng hò ơ xứ Huế trong trẻo, cao vút đầy ẩn dụ như vậy. Còn mạ, dứt câu hò liền ngồi nhìn trăng với ánh mắt xa xăm như nhớ về một người đang ở phương trời nào đó.
Tôi lặng người với niềm xúc động riêng của mình.
Tiếng hò ơ của mạ đã đưa tôi về sống lại thời dĩ vãng xa xăm ở quê nhà. Nhà tôi hồi ấy chỉ có hai mạ con sống bên nhau, cô quạnh lắm. Chiều ấy, thấy hàng xóm lục tục kéo nhau từ đồng về hết rồi mà mạ tôi vẫn biệt bóng. Tôi thẫn thờ ra đồng tìm mạ. Trên cánh đồng chiều muộn lúc đó, chỉ còn bóng mạ in trên nền trời tối sẫm. Mạ mải mê cấy cho hết đám ruộng nên không biết tôi đứng bên cạnh. Bỗng giọng hò mạ vang lên: “Ơ… ơ… chàng đi để lại nỗi sầu… cho người ở lại một trời mưa ngâu… đêm khuya thắp dĩa đèn dầu … ơ… dĩa dầu khô cạn… mà… nước mắt này…ờ… không… khô…”. Giữa cánh đồng hoàng hôn tím thẫm, âm ba tiếng hò của mạ đã làm cho lũ cò tần tảo kiếm ăn gần đó nghểnh cổ ngơ ngác rồi cất cánh bay đi. Tiếng ếch nhái vừa cất lên cũng im bặt, nhường chỗ cho nỗi buồn của mạ lan tỏa khắp cánh đồng. Dù còn nhỏ, tôi vẫn cảm nhận lúc đó mạ tôi đang thả hết nỗi lòng cô phụ ra giữa cánh đồng mênh mông mỗi lúc càng cô tịch này…
Giờ đây mạ tôi đã ra người thiên cổ. Người cùng thời với mạ cũng không còn. Mỗi lần về quê thăm mộ mạ, đứng giữa cánh đồng làng mà tôi nghe như tiếng hò ơ buồn mang mác của mạ còn văng vẳng đâu đây. Lòng tôi lại trào dâng cảm xúc. Nhớ thương mạ. Luyến tiếc những giọng hò dân dã, đã lâu rồi không còn vang lên trên cánh đồng làng và trên con sông quê mình nữa.
***
Quê hương và nỗi nhớ
Khoảng năm 1969 – 1970, làng tôi có tổ chức một đại Trai đàn – Chẩn tế rất nghiêm trang và hoành tráng theo nghi thức nhà Phật. Suốt gần một tuần của lễ, trên máy phóng thanh, ngoài những tiếng kinh, tiếng cầu nguyện của các vị chủ trì lễ, thì thỉnh thoảng lại vang lên những lời thuyết minh về nguồn gốc, lịch sử của làng. Không chỉ những người khách ở các nơi khác đến dự cảm phục mà kể cả những người làng khi biết làng mình đã được thành lập từ lâu đều rất tự hào. Các vị Khai canh, Khai khẩn là những người đã theo bước chân của chúa Nguyễn Hoàng rời bỏ quê hương Thanh Hóa vượt đèo Ngang vào Châu Ô, Rí để lập nghiệp. Nhà chúa thì khai sáng cho một triều đại phong kiến hùng mạnh, thoát ly với vua Lê, chúa Trịnh ở Đằng Ngoài, còn những lưu dân và binh lính đi theo chúa, đã tạo dựng nên những làng xã mới trên bản đồ đất nước, trong đó có làng Liễu Cốc của tôi.
Người viết bài lịch sử về làng lúc đó là ông Trần Kiêm Đoàn. Bằng cảm nhận và tài năng của một nhà văn Trần Kiêm Đoàn hiện nay, lúc bấy giờ, tuy chỉ là một sinh viên Văn khoa, nhưng anh đã dẫn dắt người nghe về hình ảnh của những vị sáng lập ra làng lúc buổi đầu rất ấn tượng. Đó là hình ảnh những con người lao động, buổi trưa ngồi nghỉ trong hang đá, phía trước có những cây liễu rủ mà lòng thì nhớ khôn nguôi về quê cũ. Chính vì vậy mà tên làng lúc mới thành lập được gọi là làng Liễu Cốc (làng có hang liễu). Lũ trẻ chúng tôi lúc bấy giờ luôn nghênh cái mặt lên, tự hào về cái tên làng đẹp nên thơ, độc đáo như vậy, ăn đứt tên của các làng khác chung quanh như Cổ Lão, Dương Sơn hoặc to như làng Hương Cần cũng không bằng. Cũng có anh ở cái làng to đó, đang học ban Việt Hán ở trường Đại học Văn khoa Huế dẫn lời bài thơ Tống nhân của Nguyễn Du để chứng tỏ làng anh ngon hơn:
“Hương Cần quan đạo liễu thanh thanh
Giang Bắc, Giang Nam vô hạn tình…”
(Nguyễn Du – Tống nhân)
Dịch thơ:
Đường cái Hương Cần xanh liễu xanh
Người Nam, kẻ Bắc xót xa tình…
(Nguyễn Phúc Vĩnh Ba)
Có lẽ hồi đó cụ Tiên Điền đã nhầm vì tưởng con đường cái quan Bắc – Nam (quốc lộ 1 ngày nay) đi qua đất làng Hương Cần. Thực ra, con đường đó đã đi qua đất của 3 làng: La Chữ, Liễu Nam, Liễu Cốc Thượng, mà trong số đó thì hai làng: Liễu Nam (Liễu Cốc Nam), Liễu Cốc Thượng vốn là từ làng cũ của tôi (Liễu Cốc) tách ra.
Lúc đầu, làng tập trung ở khu vực phía trên núi. Dần dần, khi dân số tăng lên, các cụ chuyển về phía Đông, sát con sông Bồ ranh giới hai huyện Hương Trà và Quảng Điền ngày nay. Có lẽ, ý các cụ muốn làng phải có sông, có núi mới là địa linh nhân kiệt. Người đông, đất rộng nên các cụ lại quyết định chia làng thành ra những làng nhỏ hơn, tên có gọi khác chút nhưng cái gốc vẫn còn: Liễu Cốc Thượng, Liễu Cốc Hạ, Liễu Cốc Nam, gọi tắt là Liễu Thượng, Liễu Hạ, Liễu Nam. Nghe chữ là biết đó là những làng anh em. Làng tôi hiện nay là Liễu Cốc Hạ. Các cụ lớn tuổi trong làng còn kể, ngày trước (dạo trước 1945), hàng năm mỗi kỳ đi chạp mả tổ tiên, bà con trong họ phải bới cơm đi từ mờ sáng để lên đến nơi kịp giãy cỏ các mộ để kịp chiều còn cuốc bộ về nhà, cúng tế. Ngày nay, lớp con cháu chúng tôi có xe máy, chỉ cần nửa tiếng, một giờ đã đến nơi. Ba làng bây giờ thuộc về ba xã khác nhau, nhưng làng nào cũng có bà con, con cháu của các họ. Hàng năm, vào những dịp chạp mả hoặc cúng tế con cháu các làng tập trung, nhờ đó, sợi dây tình cảm vẫn luôn ràng buộc mọi người với nhau.
Vậy mà lớp con cháu như bọn tôi sau này cũng không mấy người gắn bó với làng xóm. Không phải lòng họ muốn như vậy mà chính là vì hoàn cảnh sống. Trước 1975, có người tập kết ra Bắc, phải 20 năm sau mới có dịp trở về làng, nhưng nhiều nhất vẫn là những người phải đi lính, làm công chức cho chế độ miền Nam. Gần thì loanh quanh các nơi trong tỉnh hay ra Quảng Trị; xa hơn thì vào miền Trung, lên cao nguyên hoặc vào đến miền Nam. Hình như, ở trong mỗi con người đó bây giờ cảm nghĩ và lối sống không còn giống như trước. Cái “hương đồng gió nội“ đã “bay đi ít nhiều” (Nguyễn Bính). Không phải là họ thay lòng đổi dạ, nhưng hoàn cảnh sống khiến họ không thể như cũ được. Sau 1975, một số người làng ra đi định cư ở một phương trời xa lạ ở nước ngoài. Vì cuộc sống khó khăn, nhiều người đã tha phương cầu thực ở khắp nơi trong nước. Những người ở lại đã làm cho số dân làng ngày càng đông hơn, bộ mặt của làng cũng khá hơn trước. Những người xa quê đã lâu, nay mới trở lại không khỏi ngỡ ngàng trước những thay đổi của làng mình. Cũng như họ, tôi đã băn khoăn đi tìm những hình ảnh ngày xưa, nhưng chỉ là hoài công. Bây giờ cả làng hình như chẳng còn mấy cây tre. Các đường xóm được đổ bê tông sạch sẽ, hai bên là hàng rào được xây dựng đàng hoàng bằng gạch với sắt thép. Những ngôi nhà đơn sơ bằng tranh nứa hoặc nhà xây theo lối cổ ngày trước với vườn cây rộng mát, nay đã không còn. Thay vào đó là những căn nhà hộp, nhà tầng theo lối mới, mọc san sát bên nhau. Cả làng như đang trở thành một khu đô thị mới. Trước kia, từ cổng làng nhìn xuống giáp Chùa của làng Hương Cần chỉ là một con đường đất, một bên là sông Bồ, một bên là đồng ruộng trải dài đến tận quộc lộ 1. Nhưng bây giờ là một khu phố mới, đồng ruộng đã lùi xa để nhường đất cho sự đổi mới của làng xóm.
Những hình ảnh cũ ngày xưa giờ chỉ còn đọng lại trong tiềm thức, hiện rõ trong những giấc ngủ chập chờn của những kẻ xa quê như tôi.
AyunPa, tháng 7 năm 2011
Dòng sông Liễu Hạ quê tôi
Dòng sông Liễu Hạ là dòng sông quê tôi. Người ta gọi là sông Bồ, sông Phú Ốc, nhưng khi khúc sông chảy qua làng Liễu Hạ của tôi từ cống Tây Phương Cổ Lão đến cầu Khại phe Chùa dài chừng 1 ki- lô-mét thì đó là sông Liễu Hạ. Tôi đã quen gọi tên nó như tên làng tôi. Hơn 80 năm cuộc đời, khi tôi mới sinh ra thì dòng sông ấy đã già hơn mấy mươi nghìn tuổi. Đối với tôi thì đó là một dòng sông đầy kỷ niệm. Cả một thời tuổi trẻ của tôi ở làng, dòng sông Liễu Hạ đã đóng nhiều vai rất đặc biệt: Mùa Xuân lạnh lẽo thì sông im vắng. Mùa Hè nóng nực thì sông là nơi tắm mát. Mùa Thu thì sông phẳng lặng hiền hòa với gió heo may. Mùa Đông lạnh lẽo thì sông vắng luôn những chuyến đò. Trẻ con ở làng thì chỉ biết sống như câu hát: “Ăn no tắm mát lên cành nghỉ ngơi!”. Nhưng sợ nhất là những mùa lụt bão. Nước bạc, mưa nguồn từ trên núi Trường Sơn đổ về khiến dòng sông trở thành một dòng nước cuồn cuộn dâng lên lút cả làng xóm.
Bởi dòng sông chảy qua phía Đông làng tôi nên mặt trời buổi sáng dọi những tia nắng xuống dòng sông làm cho nước sông xanh lóng lánh đẹp như mặt nước có dát bạc, dát vàng. Những buổi chiều mùa Hè, nước sông trong mát, chúng tôi chơi đùa, chạy nhảy đất bụi dính đầy người rồi kéo nhau “ra rào tắm”. Ra rào tắm là ra sông tắm. Lũ con trai chúng tôi có đứa nhỏ, đứa lớn nhưng đều thoải mái tuột hết áo quần nhảy tùm xuống nước. Mấy đứa lớn bơi giỏi thì bơi qua rào; nghĩa là bơi qua bên tê sông. Phía bờ bên tê là làng phe Kiền. Bến tắm thích nhất là bến “Dấu Hàn Dưới”. Từ Cổ Lão xuống phe Chùa, bờ sông làng tôi có 3 kè đá do các đời trước đã chất cao và đổ dài từ đất làng ra tới gần giữa sông để tránh đất làng bị sạt lở gọi là “Dấu Hàn”. Ba kè đá đó được gọi tên là Dấu Hàn Côi, Dấu Hàn Bến Đình và Dấu Hàn Dưới hay “Bến Chú Trác”.
Tôi sống xa làng đã hơn 60 năm, nhưng dòng sông quê hương vẫn mãi là hình ảnh đẹp trong lòng tôi. Có những kỷ niệm bị mạ đập rát, da rát thịt nhưng tôi vẫn nhớ và thương còn hơn những chuyện đẹp nhất đời mình.
Tôi xin kể một chuyện khó quên của đời tôi với dòng sông quê hương Liễu Hạ: Ở làng, tôi có nhiều bạn nhưng chơi rất thân với người bạn chân đất là Cao Đức Dạng. Tuy Dạng ở vai cháu và thua tôi 3 tuổi nhưng là bạn thân và cũng là bạn học ở trường Trung học Phan Sào Nam. Dạng nay đã thành người quá cố, nhưng tôi biết xưng là chi chừ. Là ông, là anh, là chú? Đều không ổn. Thôi thì chỉ xin được xưng bằng tên thôi.
Nhớ một buổi xế chiều ngày Rằm tháng Bảy vào năm 1961, tôi và Dạng tắm ở bến Dấu Hàn và rủ nhau bơi qua sông. Qua đến bờ sông phe Kiền, thuận chân chúng tôi nhảy lên bờ và tời gần cái miếu thờ đang cúng chuối, chúng tôi hè nhau vào miếu xách nải chuối đang cúng và chạy ùa ra sông để bơi về làng. Không may ông từ giữ miếu bắt được và hô hoán lên: “Bớ làng xóm! Quân ăn cướp…Quân trộm chuối. Bắt lại, bắt lại!”. Nhưng hai chúng tôi đã xách chuối chạy ùa ra sông và bơi trở lại về phía làng. Vụ này đã làm mọi người trong làng nhốn nháo cả lên. Phía phe Kiền tức giận yêu cầu trị tội. Phía làng Liễu Cốc Hạ gặp lúc làng tế, các bậc trưởng thượng đều lên tiếng khiển trách và yêu cầu gia đình trị tội. Ở làng ai cũng biết tôi là con nhà vườn, đồ trái cây như chuối, mít, ổi, vải… đầy vườn nhưng tại nghịch ngợm mà “chôm” nải chuối chứ chẳng phải thiếu thốn hay thèm khát chi. Dạng đã bị ông già đập một trận nên thân và tôi cũng bị mạ tôi quất roi lằn ngang lằn dọc. Chừ nhớ lại mà vừa muốn khóc, vừa muốn cười khi nhắc đến dòng sông quê hương.
Tôi nhớ bờ sông chạy dọc thửa ruộng “vạt Dứt”, thời chưa bị sạt lở, đất làng mình rộng ra tới nửa sông bây giờ. Ven bờ sông có nhiều cây cừa và những “trộ dòm” ven bờ sông. Trộ dòm là cái chòi lá nhỏ từ trên bờ dài xuống tới nước, thường làm bằng lá đùng đình. Mục đích là để làm nơi rình cá. Người chủ trộ dòm ngồi núp trong chòi với cái đọt chĩa ba hay chĩa năm sắc lẻm. Khi thấy cá bơi vào tầm tay, thì người rình nhanh tay đâm chết cá rồi vớt cá lên. Người nổi tiếng “sát ngư” thường xuyên đâm được cả xâu cá là chú thợ Mực, đó là người thợ rèn nổi tiếng trong làng.
Nhà tôi ở đầu xóm Kên. Ngày ấy ở xóm Tiền Giang không có nhà ở như bây giờ. Đứng từ trong sân nhà tôi nhìn ra, có thể thấy toàn cảnh con đường Dứt với những tà áo dài phất phơ của các chị, các mệ vội vả, cất bước lên Dinh hoặc quảy gánh đi chợ Hương Cần bán nải chuối, buồng cau… Xa hơn một chút là dòng sông lung linh, xanh biếc, nổi bật trên mặt nước những cánh buồm trắng, căng gió của khách thương hồ xuôi ngược sớm, chiều êm ả…Dòng sông Liễu Hạ quê hương tôi đẹp cả bốn mùa. Sông đẹp mùa Xuân với cây xanh hai bên bờ trổ lá trổ bông. Mỗi lần Tết đến, dân làng tôi đem ghe qua bờ phe Kiền hụp xuống sông lặn xúc cát, rồi đổ lên ghe đem về Làng đổ cát lên các con đường làng, đường xóm ngập bùn cho khô ráo mà đi lại thăm nhau trong ba ngày Tết. Sông đẹp với mùa Hè khi nắng sớm, nắng trưa, nắng chiều vàng óng chiếu dọi trên sông xanh. Sông đẹp trong mùa Thu với những bụi tre lá ngà cao vút soi bóng nước và có những ổ chim “tổ rột” bện cỏ vàng hươm treo lủng lẳng trên ngọn tre. Sông cũng đẹp vào mùa Đông, những trận lụt đầu mùa với từng đụn củi rều từ núi trôi theo nước nguồn, chúng tôi chèo ghe ra vớt, phơi khô làm củi chụm bếp cả năm; lại thêm cá nguồn đủ loại về đồng đẻ trứng, chúng tôi đơm chẹp, cất rớ bắt ăn tươi, làm mắm, ướp thính, phơi khô để dành, có năm đủ để dành ăn suốt cả mùa Đông.
Tôi thương dòng sông ấy một đời nhưng cũng có mấy lần sợ thất sắc. Đó là khi tàu chiến của Tây về, chạy xuôi, ngược trên sông Bồ, đổ quân vào Bợt Lở. Lính Tây đen, Tây trắng đổ bộ, đi lùng khắp làng, khắp xóm, chúng có quyền như thần thánh và dữ tợn như ma quỷ. Tây muốn lấy đồ đạc chi, bắt ai, đánh đập ai, hãm hiếp ai cũng phải chịu. Có một lần Tây đốt nhà, cháy rụi cả làng. Đó là những năm chiến tranh đầy bom đạn, mà dòng sông quê tôi cũng phải chịu nhiều lần đau xót.
Dòng sông quê tôi có đủ những kỷ niệm vui buồn đã thành dấu ấn không bao giờ phai mờ trong lòng tôi. Dấu ấn đó đã ghi vào ký ức của tôi quá sâu đậm từ thuở tuổi còn thơ nên không có chi xóa nhòa nổi. Những năm gần đây về thăm làng, dòng sông quê hương Liễu Hạ trong xanh tươi mát của tôi ngày nào như đã thành quá khứ. Sông bây giờ nước không chảy thông thoáng như ngày xưa, đục ngầu bởi ở thượng nguồn bị các đập thủy điện ngăn lại; hai bên bờ chỉ thấy những lồng nuôi cá đan bằng tre mây nằm san sát. Những lũy tre làng và những hàng tre la ngà soi bóng nước ven sông cũng không còn nữa. Nhìn bờ sông và bến sông xưa trơ trụi nhưng sao tôi vẫn thấy yêu lắm dòng sông quê mình.
Dòng sông còn như xưa, nhưng bù lại thì dòng sông Liễu Hạ quê hương vẫn còn nằm nguyên vẹn trong lòng tôi.
***
Lụt đầu mùa làng tôi
Trần Kiêm Hạ
Bài đăng trên Báo Xuân PL.TP.HCM 2007.
Chỉ nửa mùa Thu đi qua là cả cánh đồng làng tôi vàng hươm một màu lúa chín. Khi cái màu ánh trăng đó được nhanh chóng thay thế bằng màu nâu của gốc rạ là người dân quê tôi đã hoàn tất một vụ lúa. Lúc này đất và người được nghỉ ngơi một thời gian để đợi lụt.
Lụt, nghe có vẻ dễ sợ! Nhưng với người dân quê tôi, năm nào cũng “tiếp đón” năm, ba trận, xem mùa lụt đến tự nhiên như hết mùa Thu rồi đến mùa Đông. Trừ những trận lụt hung hãn do kèm theo bão hoặc xảy ra không đúng thời vụ làm mất mùa màng, cuốn trôi nhà cửa; còn lại lụt đem đến lợi ích và niềm vui cho người dân quê tôi rất nhiều, nhất là cơn lụt đầu mùa.
Công bằng mà nói năm nào vắng lụt, lúa ngoài đồng quê tôi thiếu phù sa mà cho sản lượng kém; cây trái, hoa màu cũng lắm bệnh vì lũ sâu rầy không bị cuốn trôi ra biển. Tết đến, nồi bánh chưng, bánh tét không được mềm nhừ vì thiếu củi đun. Vụ Đông Xuân tới, những thợ cày, thợ cấy thèm món mắm cá chép ướp thính, chưng riềng thơm phức. Trên đồng, thiếu vắng những trận cười nắc nẻ của lũ mục đồng cởi tồng nhồng đua trâu dưới nước. Những cụ già lưng còng không đi được, hờn dỗi vu vơ vì không có con nước để sai con cháu thả thuyền thăm thú bạn bè, bà con…
Khi thóc đã vào tra, rơm đã lên đụn, nhìn cò, diệc từng đàn bay về trắng đồng là người dân quê tôi bắt tay giằng chống, dọi lợp, che chắn nhà cửa. Cây, cột được đốn về để sẵn hiên nhà, lạt tre và mây sợi đầy giàn bếp. Ghe xuồng đã được tu sửa vào mùa nắng, nay vẫn lôi ra trám, trét kiểm tra lần nữa. Những dụng cụ đánh bắt cá, chim, chồn và đồ dùng để vớt củi như câu liêm, rựa… đã sẵn sàng; lương thực và nhu yếu phẩm như mắm, muối, dầu đèn đủ sử dụng cả tháng là lúc này, người dân quê tôi sẵn sàng đón cơn lụt đầu mùa.
Niềm vui đến sớm nhất trong cơn lụt đầu mùa là bắt cá. Dẫu ngoài trời mưa to, gió lớn, đêm hôm khuya khoắt, cánh đàn ông cũng phải canh chừng con nước để có mặt kịp thời tung những mẻ lưới, cất những phát vó đúng lúc, mới mong đem được nhiều niềm vui về cho gia đình.
Khi nước trong nội đồng đủ lớn chảy ào ra sông rạch, đi ngang qua những eo nước (nơi đặt nò, sáo) và chảy tràn qua cả con đường làng (đường Dứt) chạy dọc ven sông tạo nên dốc nước cũng là lúc cá ở dưới sông lâu ngày tức trứng, chỉ chờ có vậy là chúng đua nhau vượt lên, chạy rỏn rẻn trắng đường. Những con cá lớn, khôn ngoan hơn thì đi ngầm dưới nước dợn cả sóng, chỉ chờ dịp là phóng ào lên như tên bắn. Con đường làng chợt ẩn, chợt hiện trong màn đêm bởi những tia chớp từ không trung. Đa số đàn ông trong làng lúc này đều ra đó. Ánh đèn soi của họ cứ chao, đi liệng lại liên hồi, tiếng reo mừng, tiếng ồ à tiếc nuối, tiếng cá vùng vẫy, tiếng chân chạy trong nước át cả tiếng mưa gió trong đêm.
Khi cánh đàn ông đem dụng cụ bắt cá ra khỏi nhà thì người phụ nữ ở nhà bắc lên bếp một nồi cháo để sẵn. Khi chồng đem cá về là chọn vài con ngon nhất thả vào giãy đành đạch, rồi nêm nếm cho thêm một ít hành ngò. Cả nhà thức giấc quây quần ngồi quanh bếp lửa hồng thưởng thức hương vị đầu mùa lụt. Có lẽ từ chuyện đó mà người dân quê tôi hình thành câu thành ngữ vui “Đàn ông ướt quần, đàn bà… ngon miệng!”. Nghe thì có vẻ không nghiêm túc chút nào, nhưng lại bao hàm đề cao vai trò, tình cảm của người đàn ông trong gia đình.
Trái với việc bắt cá xổi ngoài bờ sông, các trộ nò, sáo ở trong nội đồng không ồn ào nhưng lúc nào cũng hào hứng, căng thẳng và luôn đem lại cảm giác hồi hộp thú vị cho mọi người. Ở đó, mức nước thường chênh nhau khá lớn, tạo ra một dòng thác (vì nước phải chảy qua một hàng rào thưa bằng tre gọi là sáo), khiến những chú cá sống ở sông mê tít muốn vượt lên đó để đẻ. Chúng say mê đến nỗi lũ lượt chui hết vào bẫy (chẹp, lờ). Ngược lại, những con cá trên thượng nguồn về thường to lớn, miệng đầy râu và thân hình mốc meo, nhìn màu da là biết “địa chỉ” của chúng. Cái màu óng ánh hạt dẻ đích thị là chúng ở chỗ suối sâu, nguồn tận, quanh năm thiếu ánh sáng; vàng hạt bắp chắc chắn chúng ở khúc sông bên lở bên bồi. Chúng khôn ngoan và kinh nghiệm, thường đi từng cặp, và luôn theo đúng con nước hằng năm đã về sinh sản. Khi lại gần chân sáo, phát hiện trong bẫy đã có cá, hoặc mùi thương tích của đồng loại, chúng không tiến thêm nữa mà cứ lượn lờ ở trước cửa bẫy, chờ khi dốc nước thấp, chúng phóng ào qua thác (sáo) như một mũi tên thoát ra khỏi vùng bị chặn. Đoán trước điều này, người ta đã giăng những chiếc vó (rớ) nằm ngang mặt nước để hứng chúng. Không hẹn mà nhiều con nhảy vào tấm vó ấy cùng lúc làm tấm vó nặng chịch, bị chùng xuống, khi đáy vó vừa chạm nước là trong chớp mắt cả đàn cá cùng vút lên một phát nữa rồi… lặn mất tăm. Người xem vỗ tay hoan hô thán phục, còn người chủ nò lại tiếc ngẩn tiếc ngơ. Nhiều con cá chép thoát hiểm quá can đảm, đầy ngoạn mục và sinh động như hình ảnh cá vượt vũ môn để hóa rồng trong câu chuyện truyền thuyết mà người già hay kể.
Thời điểm bắt cá vượt thác chỉ xảy ra trong vòng vài tiếng đồng hồ, khi mức nước hai bên đã cân bằng hoặc chênh nhau quá lớn thì không thể tiếp tục đánh bắt được. Lượng cá bắt được ban đầu chỉ là một phần nhỏ, số còn lại vượt lên cánh đồng, chúng tìm những nơi thích hợp để đẻ, lúc này người ta lại thủng thẳng bủa lưới, giăng câu, đặt chẹp (lờ)…vào những ngày kế tiếp.
Nước từ thượng nguồn chảy về đến quê tôi qua bao làng mạc nên đã bớt hung dữ, mang theo phù sa đỏ ngầu, tràn vào cánh đồng. Nước cuốn theo những gì trên đường chúng gặp, những cây khô lâu ngày mục nát, cây rừng vừa bị gãy đổ, có khi cả những cây cổ thụ to đùng còn tươi nguyên và cả lau sậy chúng vừa tàn phá. Đây cũng là “chiến lợi phẩm” lụt tặng cho nhà nông để dùng trong mùa Đông và Tết đến. Cảnh vớt củi ngoài bờ sông cũng hào hứng không kém gì đánh bắt cá, ghe xuồng cả làng tập trung vào một khúc sông nhộn nhịp. Loại củi tốt thường nổi lưng chừng mặt nước và trôi giữa sông (vì ít chịu ảnh hưởng của gió), những chàng trai làng dũng cảm lao ghe ra giữa dòng nước chảy xiết nhặt củi, rồi lựa thế cập vào bờ khi ghe đã đầy. Những cô gái dùng câu liêm thoăn thoắt đưa củi rều (lau sậy) lên ghe như múa…
Nhiều năm nguồn đổ gặp lúc triều cường, trời nổi gió đông, củi theo gió tấp vào làng nhiều vô kể. Vậy là mùa Đông năm ấy các cụ già tha hồ sưởi ấm, thôn xóm vắng hẳn tiếng kèn trống đưa ma ra đồng.
Ngày nay nạn phá rừng; khai thác lâm, khoáng sản; làm thủy điện và phong trào rà điện bắt cá hủy diệt tận mầm sống của sinh vật dưới nước đã làm mùa lụt quê tôi ngày càng kém thi vị. Lụt bây giờ đồng nghĩa với thiên tai, là cảnh đói rét dịch bệnh, là mất nhà mất cửa. Đó là cái giá phải trả do con người gây ra cho chính mình. Hình ảnh cô thôn nữ vớt củi bên sông, câu thành ngữ “Đàn ông ướt quần…”, trở nên xa lạ với thế hệ trẻ. Nó chỉ còn là “mớ” kỷ niệm đẹp trong kí ức của lớp người lớn tuổi.
***
Con đường “Dứt” làng tôi
Khi lớn lên – khoảng năm 1970, tôi còn nhớ đường về làng tôi phía trước được bao quanh bởi cánh đồng lúa; một rặng tre xanh, dày uốn quanh chạy dọc con hói xóm Kên. Khuất sau rặng tre bốn mùa rì rào với gió ấy là những ngôi nhà đơn sơ mọc lên giữa những khu vườn xanh mướt…
Lối về làng tôi lúc đó chỉ có một con đường duy nhất chạy dọc triền sông, cặp phía Đông cánh đồng để vào làng được gọi là đường “Dứt”. Không biết cái tên này được ai đặt, vào lúc nào, ý nghĩa ra sao, nhưng theo cách gọi của người làng thì từ khi tôi còn nhỏ đã được nghe như rứa rồi. Đưới đường ‘Dứt’; sửa đường Dứt, cặp đường “Dứt”…
Đường “Dứt” được nối từ cầu Khại bắc ngang con hói Chuông, ranh giới hai làng Hương Cần và Liễu Cốc Hạ làng tôi. Đó là một con đường đất được đắp cao, có rải đá Bazan mà người làng gọi là đất Biên Hòa. Con đường liên thôn này đủ rộng để cho một chiếc ô tô tải chạy qua mỗi khi về Hợp tác xã chở lúa hay vật tư, phân thuốc, hoặc lên Cổ Lão, Dương Sơn…
Giờ đây, đã hơn nửa thế kỷ trôi qua rồi mà cảnh quan con đường Dứt ngày ấy vẫn còn in rõ trong tâm trí tôi. Con đường tuy nhỏ nhưng rất đẹp, uốn lượn ven con sông Bồ có dòng nước quanh năm trong xanh, lượn lờ in bóng những cánh buồm của những con thuyền xuôi ngược.
Ra Giêng, sau những ngày Tết lu bù với rượu trà, bánh mứt, chúc tụng, thăm hỏi…người làng lại vác cuốc, vác chày vồ ra vạc ruộng Dứt để đập đất khô trồng bắp, đậu, cà, ớt… Đất tốt nằm gần sông, lại được chăm sóc nhiều hơn những nơi khác nên hoa màu ruộng Dứt bao giờ cũng tốt và cho nhiều sản lượng hơn vùng khác!
Mùa Hè, khi sương mai còn lãng đãng mặt sông, tiếng gõ lóc cóc vào cây gỗ trên mạn thuyền của vạn chài xua cá vào lưới vang xa cả một vùng. Từ đường Dứt chạy cặp ra đến bờ sông lúc ấy là những thửa ruộng màu mỡ, rực lên trong nắng sớm nào là hoa cà, hoa ớt và bên kia sông là bãi biền của phe Kiền cả một “biển” bắp xanh mướt lung linh trong gió trông thật thích mắt… Đi học về trên đường “Dứt”, ngoài cảnh đẹp hai bên bờ sông, tôi còn cảm nhận được làn gió mát rượi mang hơi nước thổi lên từ mặt sông.
Mùa lụt, đường Dứt lại được người làng quan tâm hơn cả. Vì đó là con đường giao thông quan trọng và độc nhất lên Huế hoặc về làng, nên việc theo dõi, so sánh diễn biến, mức độ lụt hàng năm đều lấy mốc nước đường Dứt làm chuẩn: Lụt chưa lút đường Dứt – Lụt tràn đường Dứt rồi… là những câu nói để diễn tả mức độ của lụt to hay nhỏ, cảnh báo việc đi lại của người làng
Ngày lụt, đường Dứt còn là nơi dân làng tập trung để vớt củi rều. Những cây gỗ tươi hoặc củi mục từ trên rừng bị nước cuốn về giữa dòng hay bị gió thổi tấp vào đường Dứt. Tất cả như chiến lợi phẩm trời cho được dân làng đón nhận một cách hồ hởi. Mặc mưa, mặc gió, những thanh củi trôi về theo dòng nước cuồn cuộn, đục ngầu hung dữ vẫn không làm nản chí dân làng. Đây là thứ để dành cho bếp lửa mùa Đông của người già hoặc cho những nồi bánh tét được mềm nhừ vào ngày Tết.
Những ngày nghỉ học, có khi không có việc gì tôi cũng ra đầu làng nhìn xuống con đường Dứt để ngắm cảnh bờ sông hay “hóng” thông tin về thiên hạ. Những buổi chiều chờ người thân từ Huế hoặc nơi xa về tôi cũng ra cầu Banh ngóng về đường Dứt. Và niềm vui dâng lên rộn ràng khi thấy tà áo dài, cũ màu của mạ tôi thấp thoáng dưới cầu Khại. Hoặc những tà áo dài đủ màu của thanh nữ, thướt tha trong gió cũng cho tôi cảm giác một vùng quê thanh bình, êm ả…
Bởi thế, đường Dứt trở thành nơi tiếp nhận thông tin thời sự đầu tiên của làng quê bé nhỏ của tôi. Ai đi xa mới về, ăn mặc ra sao, mang theo nhiều thứ gì, mập, gầy, trẻ hay già hơn khi còn ở làng…đều được tiếp nhận, loan tin và bình luận từ con đường Dứt.
Đường Dứt là thế. Bao kỷ niệm của cô cậu học trò sinh ra và lớn lên ở làng đều gắn liền với con đường Dứt. Bắt đầu những bước chân đầu tiên từ làng xuống trường Tiểu học Hương Cần học; lên Trung học Hương Trà, ngày hai buổi trong nhiều năm, lũ học trò chúng tôi nhớ cả những cục đá, gốc cây, bụi cỏ trên đường Dứt.
Trên con đường đó, những người làng đã bước những bước đầu tiên, háo hức lên những con đường lớn hơn, tiếp nối cả đoạn đường dài to rộng hơn trong cuộc đời. Qua phố học hành, trưởng thành… làm việc, vô Nam, ra Bắc, ra nước ngoài, tha hương lập nghiệp, bươn chải, thành công… Rồi khi trở về làng thăm người thân, thăm căn nhà cũ… cũng đặt những bước chân hồi hộp, hồ hởi trên con đường Dứt.
Không riêng tôi mà trong tình cảm của người làng, luôn cảm nhận đường Dứt là con đường rộng thênh thang, uốn theo dòng sông một bên là ruộng lúa xanh rì và một bên là hoa màu tươi tốt. Là lối đi lo nhô sỏi đá với vệ cỏ hai bên đường luôn xanh tươi, trang trí cho con đường thêm đẹp và thêm dài tít tắp.
Bây giờ con đường Dứt đã khác xưa nhiều.
Cùng với trào lưu thay đổi làng thành phố thị của các vùng quê, đường Dứt cũng thay đổi bộ mặt và hình dáng xưa của mình. Đường Dứt đã được mở rộng và nâng cao bằng bê tông. Những ngôi nhà bê tông cốt thép nối tiếp nhau mọc lên, kéo dài suốt con đường. Ruộng lúa đã lùi xa. Những con đường trong làng cũng được nâng cấp, mở rộng, đúc bê tông. Dù có thêm con đường thứ hai thẳng tắp, cũng bê tông thênh thang để vào làng từ hướng thôn Giáp Thượng nhưng đường Dứt vẫn là con đường nhộn nhịp, đắc địa nhất làng bởi vị trí của nó.
Khi mà những hoa lợi như buồng chuối, trái cam, gà ,vịt… từ những mảnh vườn trong xóm không đủ sinh hoạt hàng ngày thì những người năng động, có điều kiện lại tiến ra đường Dứt. Họ mở quán tạp hóa, sửa xe máy, cà phê… ban đêm điện sáng trưng cả dãy nhà, tiếng nhạc xập xình đã biến con đường Dứt thành một diện mạo khác khiến người lâu không về thăm làng dễ rơi vào tâm trạng của Từ Thức.
Cảnh vật luôn đổi dời và sẽ in sâu vào tâm thức mỗi thế hệ mỗi khác. Tuy nhiên, có một điều không thay đổi là dòng sông Bồ vẫn miên man chảy, khi đến quê tôi vẫn bên lở, bên bồi; và con đường đi vào làng tôi, nằm ven sông vẫn mang tên nghe dân dã mà lại cụ thể, đó là con đường Dứt.
Người quê tôi có cách phát âm không chuẩn. Âm nhờ đọc là dờ. Nhà thì gọi là dà. Nhỏ thì gọi là dỏ. Giờ ngồi suy ngẫm, có lẽ tên đường Dứt chính là đường Nhứt, là số một, là trên hết.
Bởi từ mọi khía cạnh mà xét: vị trí phong thuỷ, tình cảm, cảnh vật…thì đích thị con đường này là Nhứt làng rồi. Ông bà ta đã thật tài tình khi gọi tên sự vật, kể cả con đường cũng rất tượng hình và tượng ý.
Liễu Cốc Hạ, tháng 10 năm 2022
Làng tế
(Bài đăng trên Nguyệt san Pháp Luật TP.HCM số 122)
Bài của Trần Kiêm Hạ
Làng tôi nằm phía Bắc ngoại ô Kinh thành Huế. Là một làng thuần nông chuyên sống về lúa nước. Tuy không giàu có, nhưng làng được liệt vào hàng đủ ăn, đủ mặc trong vùng. Bao đời nay, để nhớ ơn tiền nhân khai lập và cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, dân làng được sống an lành… cứ mỗi năm hai lần vào lúc nông nhàn là làng tôi tổ chức lễ tế Thành Hoàng và các vị Thần khác.
Tùy theo huê lợi từ số ruộng chuyên dùng cho việc lễ tế mà làng quy định số ngày cấm lửa bếp trong dân. Thường từ ba đến năm ngày. Những ngày đó không ai được đỏ lửa bếp nhà. Tất cả tập trung ăn uống ở đình làng, người già yếu không đi được thì có con cháu mang thức ăn về.
Gần đến ngày làng tế, thôn xóm được dọn dẹp sạch sẽ, mồ mả ngoài đồng được giẫy chạp gọn gàng. Quanh sân đình dựng nhiều rạp, kê nhiều bàn ghế. Cổng làng và cổng đình được kết dựng long môn bằng những thân cau, tàu dừa quấn dây tơ hồng, cờ phướn tung bay rực rỡ. Trong đình, ba gian bài vị và hai hàng thập bát binh khí đã được sơn son thiếp vàng lại; chuông trống, bù rù, phèng la đã sửa giọng; trâu, bò thịt cột đủ dưới các gốc sầu đông quanh khuôn viên đình, hậu cần chuẩn bị xong là làng khai hội.
Hồi ấy chúng tôi còn nhỏ lắm, chẳng được sắp đặt việc gì, chỉ biết được nghỉ học vì trường làng đã được trưng dụng. Và những ngày này vui còn hơn Tết. Suốt ngày bọn trẻ quanh quẩn bên lễ hội, hết xem tế lễ lại rủ nhau chơi các trò đánh bi, ném quay, đánh khăng, cướp cờ… Đến bữa thì vào đình ăn no nê rồi nhảy xuống sông tắm, tiếp tục chơi những trò chơi dưới nước như lặn bắt, ném bóng, thi bơi qua sông… Người lớn thì ngoài số nấu nướng hoặc chuyên trách lễ tế phải túc trực phục vụ trong đình, số còn lại sau khi làm xong những việc được cắt cử thì tập trung đầu làng chơi ném bi sắt, cờ tướng, bầu cua, bài vụ… khiến không khí ngày hội lúc nào cũng vui rộn ràng!
Sáng tinh mơ, tôi tung tăng chân sáo ra đình làng ăn sáng. Và sà vào cùng những đứa bạn đang sì sụp húp cháo nước xít. Hương vị đặc trưng của loại cháo này là sự tổng hợp của nhiều thứ nguyên liệu dùng để chế biến những món ăn khác còn thừa lại. Đó là mùi thơm của nếp, vị bùi của đậu xanh, béo ngon của thịt vụn và ngọt lừ nước luộc thịt; cháo có màu tím nhạt nhìn thích mắt bởi huyết ứ lấy từ ngực heo bò sau khi mổ. Cháo đang nóng, trước khi ăn cho một ít ngò gai và rau răm thái nhỏ vào sẽ dậy mùi đặc trưng của nó. Đang đói mà húp vào, cháo chạy đến đâu mát ruột gan đến đó, người khỏe hẳn ra, vì thế mà bọn trẻ chúng tôi tha hồ nghịch ngợm không biết mệt.
Ăn sáng xong, bọn nhóc chúng tôi rủ nhau lên đình xem các bậc cao niên tổ chức lễ tế. Ba gian điện thờ chưng đầy vật phẩm, đèn nến sáng trưng, khói nhang nghi ngút. Nhìn các vị cao niên khúm núm sì sụp lạy trước điện thờ, khiến không một đứa trẻ nào đủ can đảm nhìn thẳng vào các bài vị. Với chúng tôi thì sau làn khói nhang đó là cả một thế giới tâm linh đầy huyễn hoặc. Bà tôi bảo trong đình có ba gian thờ các vị thần theo tín ngưỡng dân gian được vua ban sắc phong. Tứ vị Khai canh có miếu thờ riêng nằm hai bên sân đình. Đặc biệt là ngài Thành Hoàng có miếu thờ nằm phía Bắc đầu làng, nên mỗi lần có lễ tế là phải tổ chức lễ đưa, rước ngài về đình.
Hôm nay trước sân đình, ban lễ tế đang khởi hành rước Thần Hoàng về đình. Dẫn đầu đoàn rước là vị chủ lễ dễ nhận biết qua trang phục truyền thống áo dài, khăn đóng màu đỏ cam có thêu chữ Thọ lớn giữa ngực. Các Tộc trưởng theo sau trang phục như vị chủ lễ chỉ khác là màu xanh biếc. Chiếc kiệu rước thần có bốn người khiêng, làm bằng gỗ quý, được sơn phết cầu kì bóng loáng. Trên kiệu đặt một chiếc ghế nhỏ như chiếc ngai để vị Thần ngồi. Trước ngai là một chiếc bàn nhỏ để đặt hương án, hoa quả và bát nhang. Hai bên kiệu có hai người cầm hai chiếc lộng tán lớn, tua rua ngũ sắc đi kèm hai bên che mưa nắng. Đi trước kiệu là ban nhạc hiệu; giữa kiệu đoàn người áo dài khăn đóng cầm cờ, phướn ngũ sắc, trật tự đi sau hai hàng hộ tống. Cuối cùng là bọn nhóc chúng tôi, hôm nay đứa nào cũng ăn mặc sạch sẽ, đi đứng trật tự, có hàng lối, không xô đẩy, ồn ào như mọi khi.
Đoàn rước đến một cái miếu lớn nằm dưới một gốc đa lớn ở phía Bắc đầu làng thì dừng lại. Tiếng nhạc lệnh im phắc. Chỉnh trang lại lễ phục, vị chủ lễ trịnh trọng bước từng bước vào đứng trước miếu, các tộc trưởng theo sau đứng trang nghiêm hai hàng. Kiệu được khiêng tới sau lưng vị chủ lễ. Một hồi nhạc hiệu nổi lên, bốn người khiêng kiệu đồng loạt làm các động tác thuần thục “vai, eo, nài” đặt kiệu xuống đất. Trong miếu hương đèn đã được thắp sáng trưng, vị chủ lễ bắt đầu sì sụp lạy, miệng lâm râm khấn vái nói lý do xin được rước ngài về đình. Lúc này tiếng bù rù bắt đầu cất lên từng hồi rền như tiếng sấm chui từ dưới lòng đất lên. Lạy xong vị chủ lễ cung kính bưng linh vị ngài trong miếu ra đặt lên bàn hương án trên kiệu. Một hồi trống lệnh vang lên, kiệu được đưa lên vai. Đám rước đi giật lùi ra đường, rồi quay lại, thẳng tiến về đình dưới sự điều khiển của ban nhạc lệnh. Căn cứ vào nhặt khoan của tiếng trống, độ rền liên hồi hay ngắt quãng của tiếng bù rù mà dẫu ở xa dân làng cũng biết đám rước đang cung thỉnh hay đưa tiễn.
Nhìn vẻ nghiêm trang của đoàn người đi rước và từng bước chân đặt xuống đất trịnh trọng của những người khiêng kiệu, bọn nhóc chúng tôi nghĩ rằng chắc kiệu nặng lắm, bởi có một vị thần to lớn, oai phong lẫm liệt đang ngồi trên đó mà! Giờ thì tôi càng tin lời người lớn dặn dò trước đó! Đó là khi đi qua các miếu thờ các vị Thần thì phải cung kính, cúi đầu bước nhanh, không được nhìn thẳng vào chính điện để tránh sự quở phạt… Tôi còn nhớ, hôm đi ăn giỗ về gặp trời chạng vạng tối, nghe tiếng chuông chùa đổ là mạ tôi vội vàng kéo tôi đi nép bên đường, mặc cho gai tre và cây xấu hổ đâm vào đôi chân trần tôi đau điếng. Theo mạ, đó thời khắc các vị thần đang dẫn âm binh đi tuần, nếu chạm phải họ sẽ bị đau ốm không có thuốc chữa!
Sau lễ rước Thần Hoàng về đình, chúng tôi chờ xem lễ khai hội. Sau lễ khai mạc là bữa liên hoan ẩm thực đáp ứng lòng mong đợi của người dân quê tôi sau bao ngày một nắng hai sương trên đồng ruộng. Tôi nghe người lớn ví von rằng những bữa liên hoan như thế đối với họ không khác gì ruộng hạn lâu ngày gặp mưa. Vì thế mà Ban tổ chức đã cắt cử nhân lực chuẩn bị cho buổi tiệc này cả tháng trước. Những ngày này, Ban ẩm thực nổi lửa từ khuya cho đến trưa thì mọi việc hầu như đã đâu vào đó. Trên các điện thờ vật phẩm cúng tế đã đầy đủ; dưới nhà bếp xôi đựng đầy các thúng, thịt thái đầy các nong nia; xương hầm, thịt xáo đang sôi rúc rích trong các nồi quân dụng. Tiếng cười nói, tiếng va chạm dao thớt, mùi thơm của thức ăn từ bếp lan tỏa khắp làng. Mặc dù phải làm việc thâu đêm nhưng các cô gái, các chàng trai làng không lộ vẻ gì là mệt mỏi. Chắc đây là cơ hội để họ chứng tỏ sự giỏi giang của mình nơi chốn đông người, như câu thành ngữ mà tôi thường nghe người ta nói: “Trai khôn tìm vợ chợ đông/ Gái khôn tìm chồng giữa chốn ba quân”.
Trên đình, vị chủ lễ rà soát lại vật phẩm một lần nữa. Các tộc trưởng và bô lão đã tề tựu đứng theo họ tộc của mình từng hàng. Họ phân chia vị trí từ cao xuống thấp, đứng kéo dài từ trong điện ra tận cuối sân đình, mỗi người cách nhau một tầm lạy. Tiếng trống, tiếng chiêng nhẹ nhàng, vang khẽ rồi rõ dần, dẫn nhịp đi vào lễ tế
Vị chủ lễ dâng nhang xong thì quỳ xuống trước đại điện, hai tay trịnh trọng cầm tờ sớ đưa ra trước mặt hắng giọng đọc lớn – đại ý báo cáo thành quả mùa màng trong năm qua và xin thần ban cho dân làng gặp nhiều may mắn. Mỗi lần chuyển sang một khoản báo cáo, hoặc một điều xin thì chủ lễ lại lạy một lạy và miệng hô lớn “hơn… bái” tức thì tất cả mọi người cùng lạy và hô theo. Đồng thời tiếng trống, tiếng bù rù vang lên từng hồi, tạo ra một không khí vô cùng trang nghiêm và huyền hoặc.
Ấn tượng nhất là lễ “Mao huyết tế”. Theo các vị cao niên thì đây là lễ tế dành cho các vị thần Chiêm Thành sống thời ăn lông ở lỗ trên đất làng. Lúc này, hai lực điền gánh một con heo to đã tắm sạch vào mảnh đất trống nằm cạnh sân đình. Bằng một động tác thuần thục, họ đã nhanh chóng mổ lấy huyết và nhổ lông đầu, lông đuôi bỏ vào chiếc khay chuyên dùng rồi trao cho một người mặc lễ phục đang chờ sẵn. Người này đội chiếc khay ấy trên đầu đi lên điện tế, đứng vào vị trí ấn định.
Một hồi trống cùng bù rù vang lên, cả sân đình im phắc. Người đội tế phẩm quỳ xuống. Tiếng vị chủ lễ xướng lên “Mao huyết tế” vừa dõng dạc, vừa nghiêm trang, rõ ràng kéo dài từng tiếng. Nghe một tiếng trống lệnh nhắc, tất cả những người tham gia lễ tế đồng loạt hô to theo vị chủ lễ. Cứ như vậy lặp lại ba lần, âm thanh theo gió vang xa cả một vùng rộng lớn.
Nhắc đến chuyện làng tế ở quê tôi là khơi dậy cả một rừng kí ức tràn đầy cảm xúc. Tùy theo thời điểm và hoàn cảnh của mỗi người mà người làng tôi lưu giữ những mảng kí ức, kỷ niệm khác nhau. Từ chuyện hẹn hò của những trai gái đã nên đôi lứa trong mùa lễ hội, hoặc những chuyện vui, cười ra nước mắt.
Như chuyện chú T. muốn có tiền chơi bài phải dùng kế làm “tê liệt ý chí” vợ chú. Đang “xung trận ngon lành” thì bỗng dưng chú bỏ ra ngoài. Chờ lâu quá thím T. dậy đi tìm. Ra vườn thấy chiếc quần của mình bị máng ở gốc mít mà tiền thì mất hết, biết bị lừa, thím chạy thẳng một mạch ra làng túm cổ chồng mà kể tội, làm cho những người có mặt hôm ấy được một trận cười thoả thích.
Rồi chuyện O T. đi tìm con mải chơi lễ hội. Trời tối quá sợ ma, dù trong tay đã có cây đèn dầu nhưng O vẫn chưa an tâm, bèn nghĩ ra một cách trị ma độc đáo. O… tuột quần xuống soi đèn vào “chỗ hiểm” của mình, rồi cứ thế nghênh ngang đi giữa đường. Gặp tốp người đi ngược chiều chơi lễ hội về, O dừng lại hỏi thăm con mình mà quên kéo quần lên. Người ta hỏi răng O lại làm như rứa? O thật thà trả lời: “Cái ni con chi cũng sợ chớ đừng nói ma!”. Thế là mọi người cười xỉu luôn!
Lễ tế làng tôi đã ngưng lâu rồi, nhưng nhắc đến thì người làng ai nấy lặng người đầy hoài niệm. Còn tôi, tuy tha hương đã lâu nhưng vẫn còn đây bao kí ức những năm tháng thiếu thời sống cùng bạn bè, trong đó ấn tượng nhất là những ngày vui chơi lễ hội làng tế…
***
Làng tôi… đẹp quá tâm hồn
BBS – Chúng tôi nhận được bài viết của chị Trần Thị Minh Châu và nhận ra có hai điều rõ ràng chị muốn nói: Đó là tình yêu làng xóm của chị và suy niệm về nếp sống tâm linh của người làng Liễu Cốc Hạ. Bài viết của Minh Châu sẽ diễn đạt rõ hơn khuynh hướng thờ cúng ông bà song song với đạo Phật mà quý anh chị trong Ban Huynh trưởng GĐPT Liễu Hạ đã gởi cho chúng tôi trước đây. Kết hợp hai bài viết, chúng ta sẽ có được cái nhìn vừa chủ quan, vừa khách quan về nếp tâm linh và khuynh hướng tôn giáo của làng Liễu Cốc Hạ.
Buổi chiều hôm ấy, tôi đứng bên dòng sông quê nhà, thẫn thờ nhìn dòng nước dùng dằng chảy. Đâu rồi con sông quê ngày ấy nước trong xanh, êm ả trôi về biển Đông? Lòng sông như bị thu hẹp lại bởi những lồng bè nuôi cá, không còn như ngày nào, một chút buồn man mác nhưng dẫu sao cũng là cuộc sống của dân làng mình.
Bên bến nước, hàng tre, xóm làng và đồng ruộng… bà con mình đã sống ở đây tự bao giờ. Đi mô rồi cũng nhớ về làng. Làng như cái lồng tre bao bọc những trái tim xa xứ. Trái tim dẫu có đi lạc muôn phương cũng quặn thắt nhớ làng mỗi khi quay đầu nhìn về chốn cũ. Tôi vẫn thường tự hỏi: Lai lịch khai sinh, đất lề quê thói, ân nghĩa tổ tiên, ông bà, cha mẹ, tình nghĩa làng trên xóm dưới, tình cảm bà con, bạn bè… cái chi đã làm nên tình quê hương đậm nét nhất trong tôi? Nghĩ hoài không ra, nên tôi cúi đầu thú nhận rằng, tất cả câu trả lời cho điều thắc mắc đó đã làm nên tình quê hương một đời trong tôi.
Tình cảm thuở đầu đời là tình cha mẹ, ông bà, ruột thịt ghi dấu đầu tiên. Nhưng tình cảm thiêng liêng của nếp sống tinh thần và tâm linh cũng là dấu ấn tuổi thơ và mãi mãi…
Ở xa quê, mỗi khi nhớ làng, tôi thường cúi đầu mường tượng:
Đầu làng là một ngôi đình to lớn, uy nghi như một vị thần hương thôn che chở cho dân làng trước những thiên tai lũ lụt, cùng những biến cố của cuộc đời. Mấy ngôi miếu cổ của làng quanh các xóm như có một nếp linh hiển ngoài tầm hiểu thấu của mình. Hồi còn nhỏ, tôi nghe miếu có thần linh rất thiêng, nên mỗi lần đi ngang qua miếu là cúi sát đầu và im thin thít. Tôi thường được nghe là làng Liễu Cốc Hạ mình theo “đạo thờ cúng ông bà” nên ngoài đình làng còn có các am, miệu (sách vở gọi là miếu) khắp nơi và các nhà thờ họ, nhà thờ chi, nhà thờ nhánh… để thờ tổ tiên, ông bà các đời, các cấp rất linh hiển. Những đêm rằm, mồng một có thần linh hiện ra. Nếu phải đi ngang qua am miệu đêm rằm, tôi thường bắt chước mấy ôn bắt ấn tam muội với ngon tay cái và ngón đeo nhẫn của bàn tay phải ấn lên nhau, đưa lên ngang vai, miệng không ngớt đọc đi, đọc lại câu thần chú mà chẳng hiểu mô tê chi cả: “Án Ma Ni, Bát Mê Hum”. Đó là ảnh hưởng Phật giáo mà tôi đã được gần gũi từ thời mới lớn. Một hình thức Phật giáo sơ khai kết hợp với tín ngưỡng dân gian. Làng tôi đa số các ôn, các mệ theo đạo Phật và còn có gia đình Phật tử cho tuổi trẻ chúng tôi. Ai thích nấy theo, không theo cũng tốt chứ không bắt buộc như các “làng đạo” lân cận!
Bởi yêu thương làng nên tôi vẫn thường lòng dặn lòng là sau này khi có điều kiện học hỏi nhiều hơn, mình phải thử tìm hiểu một nếp sống tâm linh thích hợp với đời sống tinh thần của bà con làng mình để cho con cháu mình nương theo.
Ngày được lên Trung học, rồi Đại học, khi đọc về các lý thuyết tôn giáo, tôi thường tìm hiểu nguồn gốc và lý thuyết về đạo thờ cúng ông bà của làng mình. Nhiều người cho rằng việc thờ cúng tổ tiên ông bà là một khuynh hướng hiếu đạo tự nhiên như “uống nước nhớ nguồn” chứ thật ra không phải là một tôn giáo. Tôi thì nghĩ khác. Đạo là con đường. Con đường tốt giúp cho người ta biết sống có tình nghĩa để hướng tới chân, thiện, mỹ nên không có đạo xấu mà chỉ có người xấu. Với quan niệm đó thì đạo thờ cúng ông bà cũng là đạo làm người vậy.
Để có cái nhìn khách quan hơn, tôi đã học được ý nghĩa trong sách vở của việc thờ phụng tổ tiên như một con đường làm người nhân nghĩa mà từ điển Wikipedia định nghĩa đạo ông bà như sau:
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên (hay còn được gọi là đạo ông bà) là tục lệ thờ cúng tổ tiên đã qua nhiều đời của nhiều dân tộc châu Á, đặc biệt phát triển trong văn hóa Việt Nam, văn hóa Trung Hoa, văn hóa Triều Tiên và văn hóa Đông Nam Á. Đối với người Việt, phong tục thờ cúng tổ tiên trở thành một thứ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Nhiều người Việt Nam, ngoài tôn giáo của mình thường thờ cúng cả tổ tiên. Đại đa số các gia đình đều có bàn thờ tổ tiên trong nhà, ít nhất là có treo di ảnh một cách trang trọng, nhưng không phải là một tôn giáo mà là do lòng thành kính của người Việt đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Đây là một tín ngưỡng rất quan trọng và gần như không thể thiếu trong phong tục Việt Nam.
Phong tục thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam nói chung và ở làng Liễu Cốc Hạ nói riêng là phong tục có từ ngàn xưa. Đó là tục lập bàn thờ trong nhà và am, miếu thờ trước hay quanh nhà để thờ tự hay thờ vọng thần linh bảo hộ đất đai, vườn nhà và người thân đã qua đời. Nhà ở thường có ba gian và gian giữa là nơi đặt bàn thờ. Đối với người làng Liễu Cốc Hạ, phong tục thờ cúng tổ tiên gần như trở thành một tín ngưỡng, một “tôn giáo” trong văn hóa làng xã. Không có nhà nào là không có bàn thờ bày biện lư hương, bài vị thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ hay người thân đã khuất. Ngoài bàn thờ chính, rất nhiều nhà còn có am thờ các quý thần, phúc thần, tài thần, hộ mạng thần… như am thờ thổ thần, tài thần, bà mụ, bà cô, vong linh sốt sảo… được bày biện và đặt theo vị trí thích hợp. Các lễ cúng kính lớn nhỏ còn tùy theo lệ làng và mỗi gia đình. Tuy nhiên, các lễ lớn như các dịp Tết, kỵ – giỗ, ngày vía… tùy theo tín ngưỡng chung của làng xã và quy ước riêng của gia đình mà tổ chức cúng lễ cho thích hợp. Hiện nay, trong làng có khoảng một phần ba người dân theo đạo Phật lập bàn thờ theo mô thức “tiền Phật, hậu Linh” để thờ Phật ở bàn thờ trước và thờ các hương linh ở các bàn sau. Đây là một phong tục rất đáng quý, cần được bảơ tồn và phát huy của dân làng Liễu Cốc Hạ.
Nói về đời sống tâm linh tôn giáo của dân làng mình, tôi vẫn thường bị dị ứng khi có người theo tôn giáo khác gọi dân làng mình là “ngoại” (ngoại đạo) hay “lương” (?!) Cho đến tuổi đời “cổ lai hy” như bây giờ tôi rất tự hào về làng mình để lễ độ thưa rằng: “Dân làng Liễu Cốc Hạ chúng tôi tất cả đều theo đạo (con đường) thờ cúng ông bà; bên cạnh khoảng một phần ba dân làng song song theo đạo Phật, chứ tuyệt nhiên chẳng có “ngoại” hay “lương” gì ráo!
Làng tôi là một thế giới xem trọng tình nghĩa và công lao của người đi trước cũng như của bà con hiện tại. Nên dù ở độ tuổi nào thì hình ảnh và cảnh thật, người thật của làng vẫn rất êm đềm và nuôi lớn tình cảm của tôi từ thuở ấu thời cho đến hôm nay.
Thời gian trôi nhanh, xã hội trải qua nhiều biến đổi, bao lớp người cao tuổi đã ra đi và nhiều thế hệ tuổi trẻ lớn lên tiếp nối, nhưng làng vẫn có sức hút thân thương với tôi không có gì thay đổi. Ngày nay, cảm giác “về làng” vẫn làm cho người tha hương như tôi bồi hồi xúc động…
Huế ngày 8 tháng 4 năm 2022
Sống cái nhà thác cái mồ
(Quan niệm “sống cái nhà, thác cái mồ” khiến người dân quê xây đắp mộ phần theo kiểu cách hoành tráng gấp mấy lần nhà ở).
Trần Kiêm Hạ
(Bài đăng trên Nguyệt San Báo Pháp Luật TP.HCM số 161)
Theo quốc lộ 1A cũ hướng ra Bắc, vừa ra khỏi nội đô thành phố Huế, nhìn về bên phải, một cánh đồng rộng trải dài ra tận phá Tam Giang với những ngôi làng nằm rải rác được bao bọc tre xanh kiên cố. Mùa mưa bão, cánh đồng ấy mênh mông một biển nước. Người dân đi lại chủ yếu bằng ghe, xuồng. Đứng trên quốc lộ nhìn xuống, trên vùng nước mênh mông là hai thứ nổi rõ trên mặt nước. Đó là những ngôi nhà cao ráo ẩn mình sau lũy tre xanh và những ngôi mộ hoành tráng, cầu kì nằm bên nhau trong nghĩa địa.
Xây mộ từ tuổi 40
Trong tâm thức người dân quê tôi, ngôi nhà và mộ phần là một quần thể không thiếu nhau được. Ấy là minh chứng dễ hiểu vì sao người dân bản xứ quê tôi luôn đau đáu bên mình câu thành ngữ “sống cái nhà, thác cái mồ”.
Trong từng ngôi làng, nghĩa địa được hình thành từ những thửa ruộng chua phèn, xa làng, khó canh tác. Nếu chẳng may có người mất vào mùa lụt, thân nhân sẽ rất khổ tâm và gian nan khi phải an táng người thân mình dưới đáy nước. Để tránh tình cảnh khó xử ấy, con cái thường chuẩn bị trước cho cha mẹ già của mình một mộ phần trước khi mất, quê tôi gọi là sinh phần. Mỗi sinh phần rộng khoảng 20m2 và được đắp cao hơn đỉnh lũ. Tùy theo kinh tế từng gia đình mà sinh phần được xây đơn giản hay cầu kì, hoàn tất lăng mộ hay chỉ là một huyệt mồ bằng gạch rồi đổ đầy cát vào. Bằng cách này thì khi an táng, người ta chỉ cần đưa hết lớp cát ở đó lên, đặt quan tài xuống lấp lại là xong, vừa nhẹ lòng người thân, lại vừa đỡ phần vất vả cho dân làng.
Khác với việc đắp nền nhà, đắp sinh phần phải thực hiện vào mùa khô lúc nông nhàn, làm chớp nhoáng trong một, hai ngày là xong. Với phương châm “nghĩa tử là nghĩa tận”, xưa làng tôi có quy ước mỗi người dân khi về già đều được dân làng hợp lực đắp cho một sinh phần. Chuyện ăn uống gia chủ có chi làm nấy. Nhưng truyền thống tốt đẹp ấy ngày càng bị biến tướng. Bước đầu là chuyện cỗ bàn to hay nhỏ đã trở thành thước đo hiếu sự – và bây giờ đất phải mua, nhân công phải thuê, khiến người nghèo muốn đắp sinh phần cho người thân không còn chuyện nhỏ nữa.
Trở về thăm quê sau nhiều năm xa cách, tôi hài lòng trước cuộc sống hiện đại của quê hương mình. Cuộc sống người dân khấm khá hơn xưa nhờ thay đổi phương thức sản xuất mới. Bỏ qua công đoạn làm đất gieo mạ, cấy hái đầy tốn kém, phương pháp gieo trực tiếp hạt giống ngắn ngày xuống ruộng, gặt bắng máy đã giúp người nông dân giảm nhân công, tăng năng suất, quan trọng hơn là thu hoạch trước lũ.
Tôi đi dưới hàng tre rợp bóng, cái cảm giác rờn rợn, thận trọng đặt từng bước chân vì sợ dẫm gai tre ngày xưa không còn nữa. Những con đường sâu trong xóm nhỏ ăn thông ra đồng ngày trước là lối trâu đi, thường xuyên lầy lội, muỗi mòng giờ cũng được bê tông hóa. Trong những khu vườn xanh mướt màu lá đã có những ngôi nhà tầng kiên cố mọc lên đủ sức chống bão, lụt thế kỷ. Nhưng tôi thật sự ngỡ ngàng khi ra đến nghĩa địa. Hầu hết mộ phần ở đây đều được xây kiên cố, cách điệu như lăng tẩm quan quyền. Một vài ngôi mộ còn tươi nguyên màu vữa. Hỏi ra mới biết đó là sinh phần của những người còn sống, rất trẻ, tuổi mới ngoài 40! Họ là những người biết xoay xở sau ngày đổi mới, hoặc có người thân ở nước ngoài gửi tiền về. Xây nhà xong, họ liền xây cho mình… một sinh phần. Với họ, đó là hai việc lớn của một đời người, ai làm xong thì lòng hân hoan như người nông dân vừa cày xong thửa ruộng.
Bớt “phần sống” lo cho “phần chết”
Trải qua bao đời cơ cực, người dân quê tôi nghiệm ra rằng, không gì sung sướng bằng được cùng gia đình quây quần bên bếp lửa hồng trong căn nhà vững chắc khi ngoài trời mưa to, gió lớn. Và không gì hạnh phúc bằng ngoài đồng ông bà, tổ tiên đã được mồ yên mả đẹp.
Trong điều kiện sống khắc nghiệt của thời tiết miền Trung, thì ước nguyện ấy quả không đơn giản chút nào. Nắng thì nẻ đất nẻ đai, mưa thì dầm dề hàng tháng trời. Có khi mùa màng chưa kịp thu hoạch, nước lũ đã về ngự trị trắng đồng. Chỉ cần một cơn lũ quét, thành quả bao năm tích cóp có khi đi đời, chẳng những trắng tay mà có khi còn mất cả sinh mạng. Khó khăn như vậy nhưng nhiều gia đình cũng đạt được ước nguyện trên nhờ sự quyết tâm, siêng năng, cần cù của người chồng, kết hợp với người vợ biết lo toan, vun vén cho gia đình.
“Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm” là câu tục ngữ được truyền dạy qua nhiều thế hệ. Trong gia đình, người lớn luôn nhắc nhở con cháu phải nằm lòng câu tục ngữ này như một câu khẩu hiệu. Vừa xong một vụ mùa, bà con nông dân lại chong đèn khảo lúa tới sáng. Trừ đi những khoản chi lớn cho tái sản xuất, giỗ chạp, họ dành dụm một phần góp sở hụi làm nhà, xây mộ… Với số lương thực còn lại, họ điều phối gia đình ăn sao cho tới ngày giáp hạt. Định lượng mỗi ngày có chừng nào thì “xào” chừng đó, thiếu thì độn thêm rau, củ quả chứ tuyệt đối không để lỡ kế hoạch xây mộ phần.
Gia đình nào có được người phụ nữ biết vun vén thì chuyện xây nhà, đắp mộ chỉ còn là thời gian chứ không xa vời chút nào. Người vợ, người mẹ cần có tài nội trợ khéo léo, biết khẩu vị của chồng con, biết yêu thương và hy sinh cho gia đình. Mỗi bữa ăn, bao giờ họ cũng lấy cớ ăn sau, nhìn chồng con chan húp sì sụp những thức ăn tự tay mình tăng gia, chế biến là họ đã “no” với niềm hạnh phúc đó rồi!
“Quê tôi nghèo lắm ai ơi
Mùa Đông thiếu áo, hè thời thiếu ăn…”
Hai câu thơ nói lên tình cảnh đời sống của người dân quê tôi vẫn còn nguyên tính thời sự. Nhưng, nếu có dịp ghé thăm “khúc ruột miền Trung”, xin du khách đừng ngạc nhiên khi chứng kiến mộ phần ở đây được xây kiểu cách hoành tráng gấp nhiều lần so với nhà ở.
***
2. Tái hiện hình ảnh con người làng Liễu Cốc Hạ
Bác Ấm Mai trong trí nhớ tôi
Làng Liễu Cốc Hạ của tôi là một hình ảnh êm đềm trong trí nhớ. Càng đi xa thì nỗi nhớ ấy càng dễ làm xúc động lòng tôi trong những ngày tháng sống ở Hải ngoại.
Tôi sinh ra ở làng và lớn lên ở Huế. Làng chỉ cách Huế 10 km nên tôi có cảm tưởng Huế và Làng như một. Vì không có tài viết lách nên khi chú Đoàn kêu tới nói tôi viết về những kỷ niệm ở làng mình, tôi rất ngại. Thôi thì cố viết cũng được, không hay thì dở chớ có chi mà lo!
Càng lớn tuổi, trí nhớ càng bị lụt dần. Nhưng chuyện người làng mình thì tôi kể mấy cho hết. Chỉ sợ bị ngầy vì không đủ tài nói hết những cái hay, cái đẹp của làng xóm và người dân mà thôi.
Chừ, tôi xin đi ngay vô đề kể chuyện nhân vật làng Liễu Cốc Hạ mình. Trước hết là kể chuyện vài người vừa có tài, vừa có tật đặc biệt.
Làng có những nhân vật mà tôi không bao giờ tìm thấy ở nhiều nơi xứ người tôi đã đi qua. Những nhân vật đặc biệt của làng tôi kể ra thật là vừa quý, vừa thương, vừa tội, vừa thú vị… như: Chú Sồ ngày nào cũng chết giả chừng ít phút khi đang làm việc và tỉnh dậy làm tiếp như không có chuyện chi xảy ra. Chú Đoài hút thuốc ngọn vấn to bằng cổ tay con nít. Chú Xu bắt ếch giỏi như người làm xiếc. Thầy Chuân một mình tụng kinh mà hai tay chuông mõ, tán, tụng rầm rộ như một ban nhạc kích động.
Chuyện nhân vật vui đến độ dân làng thành thi sĩ đặt luồn vần như: Ôn Bách cười lạt, ôn Trát nảy đờn, ôn Mơn trạc rọt…
Nhưng trong cảm giác cười vui về người làng mình thì cũng có sự xúc động, ngậm ngùi về nơi quê cha đất tổ và những người thương làng bằng cả tấm lòng nhưng không bao giờ trở lại dù chỉ là nắm tro. Đố Bà con nhắm mắt và đoán tôi đang muốn nói về ai?
Dạ, tôi nhớ bác Ấm Mai. Nhân vật Trần Kiêm Mai.
Tôi ước chi mình có tài văn chương để nói về người mà tôi và cả làng thường gọi một cách kính nể mà gần gũi là “Bác Ấm”!
Trong thế hệ của những người làng tuổi tầm bát thập hay thất thập như tôi thì bác Trần Kiêm Mai là một vị quan tòa vừa nghiêm khắc, vừa xuề xòa vừa đáng yêu mến, vừa đáng sợ. Bác Ấm là Chánh Lục sự toà Thượng thẩm Huế trong thời kỳ chiến tranh ác liệt nhất trên địa bàn Thừa Thiên Huế.
Trong hoàn cảnh chiến tranh, cũng như hoàn cảnh nghèo nàn, dân dã như thế hệ chúng tôi sinh ra còn không nhớ ngày nào thì còn nói chi đến chuyện xa vời giấy khai sinh, khai tử. Thế mà hầu như chín mươi phần trăm người dân khi ra đời và vào đời cần phải có giấy khai sinh hợp lệ là điều kiện hợp pháp để đi học, đi xin việc hay làm bất cứ việc gì cần đến giấy tờ. Bởi khi sinh ra, hiếm khi có ai làm liền giấy khai sinh bản gốc nên khi cần tới thì chỉ còn tới tòa xin làm giấy “chứng chỉ thế vì khai sinh” cần có Chánh Lục sự Trần Kiêm Mai ấn ký.
Lớp tuổi trẻ học trò dân quê chân đất như làng tôi và các làng xã quanh Thừa Thiên Huế gần như đều có giấy chứng chỉ khai sinh do bác Ấm ký. Thủ tục nhanh, lệ phí nhẹ và cách tiếp cận không cầu kỳ, đã vẽ ra một chân dung người Chánh Lục sự đóng vai quan tòa thật là bình dị, hài hòa, không hề nghe tiếng người ta thán.
Xa hơn nữa là trong nhiều vụ kiện tụng “vô phúc đáo chốn tụng đình” những người nông thôn thường xem bác Ấm như một cái phao giúp kêu oan hay xin được công bằng luận tội.
Riêng đối với làng Liễu Cốc Hạ chúng tôi, thì vợ chồng bác Ấm là tấm gương của lòng nhân hậu.
Chiến tranh càng lan rộng, bom đạn càng nhiều, nhu cầu cuộc sống tha thiết nhất của người dân quê là tránh được bom đạn và có miếng cơm ăn căn bản để sống còn. Tôi còn nhớ là những nông dân ở làng tôi thường chạy lên thành phố Huế trong lúc tay nghề chỉ quen cầm cày, cầm cuốc. Vợ chồng bác Ấm đã có sáng kiến lập ra một đội xe xích lô đạp mười mấy chiếc để chở khách. Các chú nông dân còn trẻ, lanh lẹ nên chỉ cần huấn luyện trong vài ngày là kiếm ăn được, có tiền nuôi vợ con trên vùng đất mới. Các chú trong đội xích lô đó sau này đều đổi nghề và trở thành những người có cuộc sống vững vàng nơi thành phố Huế.
Đội xe xích lô đạp chở khách chỉ là một trong nhiều sáng kiến của hai bác Ấm giúp người dân làng Liễu Hạ có phương tiện và điều kiện bươn chải kiếm sống nơi thành phố. Có rất nhiều dạo người làng phải đua nhau chạy lên thành phố Huế để lánh nạn, trốn Tây lùng. Việc đầu tiên của những người xa lạ, bơ vơ nơi thành phố Huế là chạy vào xin tá túc ở nhà bác Ấm. Hình như nhà Bác Ấm bao giờ cũng mở rộng cửa đón dân làng để giúp miếng cơm, manh áo, vật dụng, chút tiền bạc đi đường. Bất luận có liên hệ bà con hay không, chẳng ai bị bác Ấm từ chối.
Điều đặc biệt là ai cũng biết hai bác Ấm chẳng phải là người thừa tiền, lắm bạc, thậm chí bác Ấm mụ kinh doanh câu lạc bộ ăn uống, có khi phải mua chịu thực phẩm ngoài chợ Đông Ba nhưng khách khứa, người làng chẳng ai thất vọng. Sau khi ghé nhà hai bác Ấm trở ra chẳng còn ai bụng đói, tay không cả.
Càng cao tuổi thì khuynh hướng tu hành và làm việc thiện, giúp làng nước của hai bác Ấm càng tăng. Năm 1961, bác Ấm đã dùng đất vườn hương tự, hương hỏa để xây ngôi chùa Túy Liễu Tự và xin cúng cho làng. Ngôi chùa chung đó còn tồn tại đến ngày nay.
Sau ngày đất nước thống nhất năm 1975, hai bác Ấm dắt nhau về làng làm ruộng, chăn nuôi, chạy máy nước dẫn thủy nhập điền trong lúc con cái của hai Bác Ấm hầu hết đã di tản qua Mỹ hay du học ở châu Âu trước đó. Nhìn cảnh hai ông bà cụ tuổi già, một thời nổi tiếng với nếp sống thượng lưu, xung quanh có nhiều kẻ ăn người ở, nay về quê làm nông dân, bà con ở làng ai cũng lấy làm xót xa, ái ngại thương tình sợ hai bác không kham nổi. Nhưng khuôn mặt, nụ cười, giọng nói lạc quan và thao tác siêng năng của hai bác trên đồng lúa, vườn rau đã làm mọi người yên lòng, nể phục.
Sau đó, hai bác Ấm được con cái bảo lãnh qua định cư tại Mỹ. Cuộc sống của người Việt Nam thời gian đầu định cư trên đất Mỹ cũng gặp muôn vàn khó khăn. Đối với những người tuổi già như hai bác Ấm, cuộc sống càng khó khăn hơn vì không làm ra tiền. Nhưng lòng thương người, bà con và làng xóm vẫn không mất đi vì hoàn cảnh. Từ những năm đầu sống tại Salt Lake City, tiểu bang Utah, năm nào từ đầu tháng Chạp hai bác Ấm cũng siêng năng cùng chung lưng gói bánh tét để đem bán kiếm tiền giúp người nghèo và bà con khổ cực ở làng. Thương quá những đồng tiền đô la Mỹ được dệt bằng mồ hôi, công sức của hai cụ già Việt Nam từ đất Mỹ gởi về quê mẹ giúp đời.
Những năm cuối đời hai bác Ấm về sống tại miền Nam California. Tuy tuổi đời trên 90, hai bác Ấm vẫn nhín đồng tiền được trợ cấp để gởi về làng giúp Chùa, tặng quà cho gia đình Phật tử và bà con. Hai bác Ấm luôn luôn đi đầu đóng góp cho các chương trình từ thiện và xã hội trên quê hương.
Bác Ấm mụ đi trước. Bác Ấm ôn đi sau. Ngày về dự tang lễ bác Ấm ôn tại Santa Ana, tôi được các anh chị con bác Ấm cho biết là hai Bác di chúc lại cho con cháu rằng, tro cốt hỏa thiêu của bác sau này sẽ đem đi rải trên đại dương.
Ngày lễ thủy táng hai bác Trần Kiêm Mai và Kỳ Ngọc Nguyên trên Đại Dương ven bờ biển xứ Hoa Kỳ, tôi có được thông báo của anh Trần Kiêm Tuấn con trai của hai bác. Nhìn nắng gió quê người, nghĩ đến thân tứ đại của hai bác Ấm sẽ chỉ còn là đám bụi mờ mất hút trong lòng biển quê người, tôi bỗng cảm thấy thấm thía với sự vô thường của số phận và nỗi phù du của kiếp người.
Tôi muốn thắp một nén tâm hương khấn với hai bác Ấm rằng: Xin bái biệt với hai đám bụi mờ tan nhanh trong lòng biển. Ý nghĩa cáo quý nhất của một kiếp nhân sinh không phải là miếu đường, lăng tẩm mà là dấu ấn để lại trong mỗi lòng người. Hai bác không còn trên trái đất nhưng ân nghĩa cao quý của hai bác còn mãi trong lòng người, lòng con và lòng con dân làng Liễu Cốc Hạ.
Chicago ngày 10-12-2022
Ngày trở về
BBS – Nghe anh Trần Kiêm Thảo (đời thứ 14 chi nhất phái Trần Kiêm) kể về hành trình của một người con ở Thanh Hoá tìm về nguồn cội mình là làng Liễu Cốc Hạ rất thú vị và đáng trân trọng. Ai cũng nghĩ đó là một người đàn ông dày dạn sương gió. Nhưng không, người đó là một phụ nữ, là cháu nội của cụ Trần Thị Ngữ (đời thứ 11 chi nhất Trần Kiêm). Xin kính mời bà con đọc để hiểu thêm thế nào là sức mạnh, là tình cảm của con người xa quê đối với nguồn cội mình.
Dẫu đi bốn biển chân trời
Không đâu sánh được bằng nơi quê nhà
Đó là nỗi lòng thầm kín, cũng là khát khao cháy lòng của những người con sống xa xứ. Năm 2006, tôi trở về chốn quê (thôn Bút Cương, xã Hoằng Phúc, huyện Hoằng Hoá, Thanh Hoá) mang theo cả gia tài hạnh phúc cùng chồng, con và sự nghiệp sau hơn mười năm tạo dựng trên xứ người.
Nỗi nhớ, niềm vui ngập lòng khi chúng tôi được gặp lại người thân nơi quê nhà. Cũng là dịp đầu Xuân, nên tôi dành nhiều thời gian đi thăm họ hàng ruột thịt. Và tôi dành riêng một buổi đến thăm một người cao tuổi nhất trong họ Trần là chú Trần Văn Cảo.
Giữa ngày Xuân đầy sắc hoa nở rộ trong vườn nhà chú, vậy mà mắt chú ngấn lệ làm tôi quá ngỡ ngàng. Chú nói với tôi, giọng ngậm ngùi đầy thất vọng:
– Cháu ơi, gốc gác quê nhà ta ở xa lắm, mãi trong Huế tê! Khi các bác, các chú còn sống ai cũng mang tâm trạng hoài cố hương. Nhất là ông Trưởng (tức là ông Mùi – cha cháu Thắng) lúc mất truyền lại cho chú bằng giá nào cũng phải tìm cho được gốc gác tổ tiên mình để đưa con cháu về thăm.
Rồi chú hạ giọng:
Chú thuê người đi tìm nhiều chục năm sau ngày giải phóng, cả cháu Thắng “đích tôn” gia tộc này cũng đi nhiều lần mà vẫn không có tin tức gì cả. Nay chú đã gần đất xa trời rồi mà vẫn chưa thực hiện được di nguyện của cha ông nên buồn lắm cháu ạ!
Xưa nay tôi cứ nghĩ gốc gác bà nội mình ở Thanh Hoá. Tuy nhiên càng nghe chú kể, tôi càng tin và thấu hiểu tâm trạng của chú lúc này đúng là:
Vườn Xuân khoe sắc trăm hoa nở
Một gốc u buồn ta với ta
Giọng chú trầm buồn, lần lượt đưa tôi về dĩ vãng của mình:
Lúc chú khoảng 7- 8 tuổi (tức khoảng năm 1938 – 1939 gì đó) các cụ nhà ta về Kinh thành Huế dự thi. Nhân chuyến đó, Chú được các cụ đưa về quê thăm họ hàng ở một ngôi làng nằm cạnh sông Bồ. Chú nói: “Nhà ta rộng lắm, đất đai mênh mông; cạnh nhà thờ có ngôi chùa lớn… Hồi đó sở dĩ chú đi được là vì theo các cụ làm quan lớn trong triều đình. Các cụ đi công tác bằng ngựa ra Bắc vào Kinh thành thường xuyên, kể cả đi thi… Chú còn nhỏ nên được đi theo. Chú thấy núi sông hiểm trở và xa lắm. Sau đó thì đất nước xảy ra bao nhiêu biến cố và chia cắt đôi miền hơn hai mươi năm. Sau ngày giải phóng nhà ta vô cùng khó khăn và cũng không mường tượng được đường đi lối về, nên cứ có người quen vào Nam là nhờ vả họ tìm thông tin. Chú càng cao tuổi càng lo lắng sốt ruột, nhiều lúc hoảng hốt vì tuổi già mà chẳng tìm được tin gì về quê nhà. Việc giao phó của tiền nhân chưa hoàn thành, chú thấy mình có lỗi lớn nên buồn lo cháu ạ… Ít nữa cháu vào Nam, cháu chú ý tìm quê mình xem có hi vọng gì không nhé. Chú gần như hết hi vọng rồi!”.
Vâng, đó là lời tâm sự của chú Cảo.
Tôi hỏi chú: “Gia phả nhà mình và địa chỉ quê nhà, tên tuổi của các cụ ra Bắc làm quan vào thời điểm nào hả chú?”.
Chú nói làm tôi “ngẩn ngơ”: “Gia phả nhà ta thời chiến tranh máy bay ném bom cháy mất rồi! Chỉ còn lại hai câu đối và bức thờ tự bằng gỗ thôi”. Tôi biết hai bức câu đối và bức thờ bằng gỗ quý đó. Bà nội tôi tậu gỗ trên rừng sâu về để ông nội tạc câu đối và bức thờ với mục đích lưu lại cho con cháu tìm về nguồn cội. Tôi hỏi: “Chú còn nhớ gì về địa chỉ gốc gác quê nhà không?”. May thay chú bảo: “Chú nhớ lắm chứ, nhớ tên từng người, tên làng nữa…”. Nói rồi chú lấy giấy ra ghi. Chiều hôm đó chú trao cho tôi “một tờ giấy”.
Vâng, chỉ vỏn vẹn “một tờ giấy” thôi, nhưng đó là cả cuộc đời của một vị chính khách được triều đình bổ dụng ra Bắc làm quan nơi xứ người gửi gấm tâm tư vào đó… Rồi từ đó dòng con cháu nối dõi cha ông học hành, rèn luyện để về triều đình thi cử, làm quan phụng sự dân với mục đích tốt đạo, đẹp đời… Và tôi đâu có ngờ từ “một tờ giấy” viết tay đó, tôi lại làm được “một sứ mệnh thiêng liêng” của cha ông giao phó!
Hành trình tìm về cội nguồn
Kể từ lúc ấy, trong tâm tư tôi luôn nặng trĩu nỗi niềm là phải tìm về chốn quê cha, nơi có địa danh: “Xứ Huế – sông Bồ và làng Liễu Cốc Hạ”. Tôi hồi hộp và thoáng niềm kiêu hãnh vì ở nơi đó có cha ông tôi từ những ngày đầu vượt ải, gian truân cùng chúa Nguyễn Hoàng mở cõi: “Từ độ mang gươm đi mở cõi…” để góp phần tạc vào dáng hình Việt Nam chữ S duyên dáng, can trường, vững chãi như hôm nay. Và từ đó, những con người mọi thời đại luôn chắt chiu, học hỏi, mở mang uyên bác để công hiến cho người, cho đời chất sống đẹp, trong đó có một phần cha ông tôi đóng góp.
Trước đó, tôi luôn nghe và cảm nhận những âm hưởng dạt dào của tình người quê hương xứ Huế – Những âm hưởng văn chương sâu lắng, võ nghệ cao cường – Những câu hò Huế Nam Ai, Nam Bình, hò Mái Nhì… Những bài hát rung động lòng người về Huế… tất cả đằm thắm tình người mà tôi cứ dành trọn cảm xúc ấy trong tim mình.
Thời sinh viên Văn khoa Sài Gòn, hàng năm tôi thường được cử đi thi nghiệp vụ chuyên môn về “bình thơ và ngâm thơ”. Có lần tôi chọn bài thơ “Huế vấn vương” của nhà thơ Huy Cận và đạt giải nhất. Thầy Trần Hiếu Tá, Trần Thanh Đạm, Lê Sỹ Viễn bảo: “Không phải người xứ Huế mà sao Huế chi, Huế rứa hè”. Ai ngờ đâu tôi cũng là người Huế! Vậy đó, sau này tôi mới nhận ra trong dòng máu mình có một phần của cha ông người xứ Huế.
Sau chuyến đi ấy, tôi vào Sài Gòn mang theo sứ mệnh một trang giấy biết thổn thức tình cố hương. Tôi bắt đầu cuộc hành trình từ trong tim và bằng nhiều nẻo ngoài đời…
Có một lần tôi lên thư viện tình cờ đọc trang báo Sài Gòn Giải Phóng có tựa: Hội thảo tết Nguyên tiêu về cuốn tiểu thuyết “Tu bụi” của tác giả Trần Kiêm Đoàn. Tựa đề “Tu bụi” làm tôi chú ý vì có phần tương phản giữa “bụi bặm” cõi trần và sự thánh thiện của Đạo Phật. Tôi cứ giằng co, suy nghĩ cái tựa ấy mãi và ra sức tò mò tìm hiểu! Rất tiếc ngày ấy tôi có tiết dạy. Thế là sau đó, cứ chủ nhật tôi lại đi lang thang vào các nhà sách ở Sài Gòn hỏi, nơi nào cũng nói có nhưng bán hết mất rồi. Tôi không bỏ cuộc và cuối cùng cũng tìm thấy ở nhà sách Sài Gòn đường Lê Lợi, nhưng họ nói duy nhất còn một cuốn để trưng bày. Điều đó lại càng khiến tôi tò mò hơn và tôi đã thuyết phục đến cạn lời. Cuối cùng cuốn sách “Tu bụi” ấy đã thuộc về tôi.
Thời điểm ấy, tôi không hề biết tác giả Trần Kiêm Đoàn là ai, mà chỉ chú ý đến quyển sách mang cái tựa lạ lùng.
Quả thực tôi bị cuốn hút và trăn trở nhiều lắm. Đọc xong cuốn sách, giá trị nội dung – nghệ thuật… tôi nhường lại cho những nhà nghiên cứu, bình phẩm đa chiều. Phần tôi ngộ ra một điều “hành đạo” vào đời sẽ soi sáng, tỉa tót cho ta, cho đời, cho muôn đời sau “Cuộc sống mãi mãi xanh tươi mặc dù sương gió”.
Trong tiểu thuyết “Tu bụi” có lúc tôi thấy thấp thoáng hình bóng cha ông và các cô tôi đang ở đâu đấy trong tiềm thức. Cuốn sách như là hành trang dẫn dắt tôi gần dần với cội nguồn mình.
Cuối năm 2006, trước Tết độ 10 ngày, như có cái gì đó thôi thúc trong lòng, khiến tôi đứng ngồi không yên nên quyết định từ Sài Gòn bay ra Huế bắt đầu cuộc hành trình tìm về cội nguồn. Huế lúc đó cuối mùa Đông. Nhưng bằng trang giấy của chú Cảo làm niềm tin, trong một không gian mưa mờ mịt và buốt giá, tôi vẫn quyết chí đi tìm. Tôi đi trong mông lung. Có người chỉ vào đường Phú Xuân mà hỏi. Tôi đi mãi không thấy có người trên đường để hỏi. Sốt ruột, tôi lại thuê xe đi ra hướng Bắc trên đường Lê Duẩn. Cả gia đình tôi cứ đi đại. Không xác định phương hướng vì mưa to, gió lớn, không nhà nào mở cửa để hỏi. Khoảng nửa tiếng ngoái lại phía sau, thấy một người đàn ông, tôi vội xuống xe, chắn họ lại hỏi thăm. Họ không nghe rõ tiếng Bắc và tôi cũng không rõ lắm tiếng Huế. Tôi liền đưa tờ giấy ra cho họ đọc. Họ đọc đi đọc lại nhiều lần và giữ miết tờ giấy. Sốt ruột vì sợ mưa ướt nhòe tờ giấy, tôi xin lại nhưng họ không đưa! Đến lần thứ ba tôi ngỏ ý xin lại thì người đàn ông nói: “Từ từ đã nào, họ nhà ta đây mà, đi theo tôi…”. Trời ơi! Lúc đấy tôi nghi ngờ tai mình và xin lại tờ giấy. Nhưng họ lại nói cứ đi theo họ ngược lại thành phố. Tôi làm theo mệnh lệnh như cái máy. Tới một bệnh viện có một bác ra đón. Bác này giới thiệu mình tên Trần Kiêm Kỳ. Vẫy tôi vào bệnh viện bác nói: “Cháu ơi! Họ ta đây rồi cháu ạ. Hôm nay bác tổ chức tất niên cho cơ quan, tí nữa về nhà bác, số 438 Lê Duẩn – Huế. Bác sẽ đưa cháu lên nhà bác Khuê để xem gia phả người thân ở đó rồi tính sau”. Tôi hỏi bác nhà thờ họ ở đâu cho tôi về. Bác bảo không có ai ở đó cả, chỉ ngày mùng một, rằm mới có người. Tôi vẫn còn chút nghi ngờ địa danh nên xin bác địa chỉ để về, bác lại cho người tôi gặp đầu tiên đưa tôi về.
Người dẫn đường
Trên đường từ bệnh viện đi ngược ra phía Bắc thành phố Huế, tôi nhìn thấy phía Tây Nam thấp thoáng những dãy núi dài cao, sừng sững nhấp nhô, xanh xám do mây mưa che phủ tầm nhìn. Cảnh sông núi ấy cũng đủ cho tôi nhớ lại lời nhà tiên tri hiền tài Nguyễn Bỉnh Khiêm, khuyên Chúa Nguyễn Hoàng đang trong tình thế việc nước, việc nhà khó vẹn toàn:
“Hoành sơn nhất đái – vạn đại dung thân”
Là thật sự có lý, có kỳ tích… Ngài đã lên đường tuyển mộ theo đoàn người yêu giang sơn, trọng nghĩa mở cõi “Đất phương Nam”, trong đó có cha ông tôi. Trên đường về làng, hai bên đường tôi nhìn thấy những chùm hoa mai màu vàng chanh nở rộ trong các vườn mai trải dài ven bờ sông khá rộng với dòng nước lặng lờ trôi, xanh trong như ngọc; tôi lại thấy thấp thoáng những rặng tre nghiêng mình soi bóng nước, mềm mại, uyển chuyển mà kiêu hồn. Cảnh gợi tôi nhớ tới bài thơ:
“Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc lá mong manh
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi” –
(Nguyễn Duy)
Lối tôi đi về ngập tràn hoa khoe sắc và đung đưa những ngọn tre dịu dàng như níu gót chân khiến tôi thẫn thờ tưởng tượng! Chênh chếch ngước nhìn lên, trước mắt tôi là một cổng làng khá bề thế có dòng chữ: “Làng Liễu Cốc Hạ”. Tôi hỏi người dẫn đường: “Vậy sông Bồ ở đâu ạ?” Và được trả lời: “Là nãy giờ đang đi trên bờ sông Bồ đó. Gần tới nhà thờ họ rồi, đi mau. Tôi đã đến được nhà thờ họ thật rồi! Một điều mà các bậc cha ông tôi mơ ước cháy lòng đã thành sự thật.
Một địa danh tên làng – một cái tên con sông – một ngôi nhà thờ họ, đó là quê, là cội nguồn, nơi linh thiêng dấu yêu mãi trong trái tim vị chính khách lưu lạc nơi xứ người – luôn mòn mỏi tháng năm mong ngày trở về khắc trên hai câu đối ở từ đường:
“Chính khách ly hương hồn viễn xứ
Lòng son vời vợi chốn cố hương”
Bao thăng trầm, biến động cả trăm năm nay tiên tổ đã đưa lối dẫn đường cho tôi về với nguồn cội. Từ giây phút này, đất trời, sông núi, làng Liễu Cốc Hạ và con sông Bồ ôm cả giấc mơ cha, đã được chứng kiến cuộc trở về của con cháu với niềm hân hoan xúc động không nói nên lời…
Sau đó, tôi trở về Thanh Hoá đưa bà con họ Trần về làng Liễu Cốc Hạ đoàn tụ với họ hàng nguồn cội. Những khuôn mặt lần đầu tiên gặp gỡ nhưng sao lại thấy gần gũi, thân thương tự bao giờ. Trong niềm xúc động, chúng tôi được các bác họ Trần cho biết Ngài họ Trần chúng tôi ở Thanh Hoá là Trần Kiêm Năng, sinh năm Mậu Ngọ (1846 ) đời thứ 10, thuộc chi Nhất phái Trần Kiêm (anh Trần Kiêm Thảo đời thứ 14 cho biết).
Thời ấy, ngài Trần Kiêm Năng làm quan, phò vua Hàm Nghi ra Tân Sở (Quảng Trị) chống Pháp. Năm 1888, vua Hàm Nghi bị giặc Pháp bắt. Các quan quân phò vua bị giặc Pháp truy sát đến cùng. Cụ Năng chạy thoát ra Hoằng Hoá (tỉnh Thanh Hoá) lánh nạn. Vì sợ liên luỵ cho họ hàng, ở đây cụ thay chữ lót họ Trần Kiêm của mình thành Trần Văn. Lúc sinh người con trai đầu lòng thì vụ việc phò vua Hàm Nghi cũng đã lắng dịu. Tâm tư luôn hướng về quê hương, cụ đặt tên con, lấy lại chữ lót là Trần Kiêm Hùng để sau này con cháu tìm về nguồn cội. Cụ Hùng và các con, cháu đời sau theo gương cha ông học hành đỗ đạt, cũng làm quan giúp dân, giúp nước. Tuy nhiên, cũng vì chuyện học hành mà đến đời thứ 13 về sau con cháu lại đổi lại Trần Văn. Chính vì vậy mà sau này bác Trần Kiêm Huê bôn ba khắp Thanh Hoá đi tìm hậu duệ của ngài Trần Kiêm Năng mà không thấy.
Từ ấy, hiệp kị hàng năm cháu con xứ Thanh lại trở về với tổ tiên, với những người anh em, con cháu trong gia tộc ở làng Liễu Cốc Hạ.
Và thời gian cứ thế trôi đi, lớp lớp con cháu thay nhau về nơi nguồn cội cùng với các bậc tiền bối. Âm – dương giao hòa để tiếp nối con đường ăn vóc học hay, ôn về truyền thống tốt đẹp của cha ông làm hành trang, niềm tin, trải nghiệm vượt lên chinh phục thế giới.
TP HCM, tháng 6 năm 2022
TRẦN KIÊM ĐOÀN VIẾT VỀ HUẾ
BBS: Thi sĩ Kiêm Thêm là nhân vật nổi tiếng của làng Liễu Cốc Hạ. Giới văn bút toàn quốc biết đến Kiêm Thêm từ những năm cuối thập niên 1950. Nhận thấy bài viết về nhà văn Trần Kiêm Đoàn khách quan và có giá trị về văn học nghệ thuật, BBS chọn đăng trong mục này. Xin tưởng niệm như một lời cảm tạ đối với hương linh của cố thi sĩ Kiêm Thêm.
Tên của một tác phẩm, có thể làm cho người mới đọc thảng thốt giật mình tự hỏi, phải chăng đây là chuyện Liêu Trai hay thần thọai ma quái hoang đường. Nếu người đọc là một “Huế chay hay hơn Huế rặt” thì sẽ phá ra cười ngặt nghẽo đầy thống khoái, vì lần đầu tiên, một hình ảnh ngộ nghĩnh, đặc sệt chất Huế là “con yêu bánh nậm” được đưa lên sách báo trình làng.
Thế nhưng, khi lần lượt từng trang đi vào thế giới “con yêu bánh nậm”, tác giả Trần Kiêm Đoàn lại dẫn người đọc vào “cõi người ta”, một cõi đời hiện thực kéo dài qua thời gian, từ ngày xưa đến bây giờ và dàn trải trong không gian, từ quê mẹ đến quê người.
Hình thức của “con yêu bánh nậm” là một tuyển tập gồm mười hai tiểu phẩm. Nhưng về nội dung thì có thể nói rằng đây là một truyện dài, nếu truyện dài được hiểu như là một câu chuyện có một hay nhiều nhân vật chính hiện diện trong suốt nội dung từ đầu đến cuối. Những bài viết trong tập, với nhiều lối hành văn khác nhau, thể tài khác nhau, bối cảnh khác nhau, nhưng vẫn giữ trọn được tính nhất quán. Sự nhất quán trong suy tư, trong phong thái hành xử và trong triết lý sống của một người đã trải qua nhiều chặng đời vinh nhục triền miên. Khởi đầu là tuổi thơ từ một thôn nhỏ ở hữu ngạn sông Bồ, lớn lên bên dòng chảy của sông Hương, đầy chuyện ân tình; rồi bỏ nước trôi giạt sang Hồng Kông, cuối cùng đến vùng “đất hứa” này; lăn lộn, thành tài, để rồi có dịp trở về thăm lại thôn nghèo đó. Trần Kiêm Đoàn đã kể lại những mảnh đời người (hay chính đời mình) qua những vòng xoay vần, có khi chậm rì và lắng đọng, nhưng cũng có lúc bức xúc đến chóng mặt trong cuộc đời nhiều sóng gió: Sóng phủ đầu của đại dương (Đánh Sò), sóng nhấp nhô của tình cảm (Con yêu bánh nậm, Cầu trường tiền sáu vài mười hai nhịp, Trời hành cơn lụt mỗi năm), sóng thao thức của suy tưởng (Thằng mơ, Tượng đài công chúa Huyền Trân) và sóng vươn lên của ý thức, nhân tâm (Chữ nghĩa muộn màng, Việt kiều, Từ ngõ Huế xưa).
Trong mỗi bối cảnh kể trên, với lối nhận xét tinh vi, sâu sắc, pha mầu trào lộng, “Con yêu bánh nậm”, thêm một lần nữa, sau khi “Chuyện khảo về Huế” của cùng một tác giả ra đời, bạn đọc có dịp khám phá thêm được nhiều điều mới lạ trong nghệ thuật diễn đạt. Với bút pháp khi trang đài cổ kính, khi ước lệ xuôi dòng, khi nghiêm trang lý luận, khi tỉnh tỉnh bông lơn, Trần Kiêm Đoàn đã men theo từng dấu ấn thời gian ghi đậm trong tác phẩm này.
Mỗi dữ kiện, từng chi tiết, chúng ta sẽ gặp được lối nhìn sắc bén, qua những mẫu người mang bản sắc Huế, vừa thuần khiết, hiền lương lại vừa chua ngoa, tinh nghịch một cách dễ thương. Phải có văn phong và cảm nhận đặc mùi Huế, như bản thân của tác giả, thì mới gói trọn được ân tình, ý vị qua những mẫu sống đó. Và dù trong hoàn cảnh nào, qua nhân vật nào, vào thời điểm nào thì tất cả các tiểu phẩm của Con yêu bánh nậm đều nói lên được một ý nghĩa lớn của cuộc đời: Phải vươn lên để sống bằng một ý chí sắt son và một tấm lòng nhân hậu với chính mình, với con người và với quê hương đất nước, như nhiều lần được nhắc đến qua ngôn ngữ và hành trạng của những nhân vật chính trong tác phẩm. Với những độc giả gốc Huế, hay từng sống chan hòa với đất Huế, thì dễ cảm thông và hòa điệu ngay với tầm nhìn, lối nghĩ của Trần Kiêm Đoàn trong toàn tập. Có thể những mẫu người được chọn làm nhân vật điển hình trong tác phẩm từng thấy thoảng hiện đâu đây, nhưng lại được gợi lên, dựng lại, thổi thêm hơi ấm những tình cảm đậm đà, chân chất vốn có của người Huế.
Thủ pháp sáng tác đầy sức chinh phục lòng người của Trần Kiêm Đoàn là dùng cảm nhận sâu lắng nhất từ cõi hiện sinh để đi tìm thời gian đã mất, để gởi gắm cái nhìn về phía đối tượng hiện thực qua lăng kính hoài niệm và độc sáng của riêng mình. Chính dòng văn học đa dạng của xứ Huế có một dáng vẻ riêng, vì những tài năng sáng tạo của vùng đất này đều cố gắng khai thác những khía cạnh đặc thù, sâu thẳm và biểu cảm nối kết ngày xưa và bây giờ; chiêu hồn những cái bóng trong cổ kính về với hình tượng nhân gian giữa cuộc đời thường hôm nay. Thái độ tìm về quá khứ như một cuộc hành hương tâm linh để phục hồi lại dáng xưa, làm cho người ta nhớ đến Marcel Proust (1871-1922), khi ông cho rằng, người ta có thể “Tìm lại thời gian đã mất” (À la Recherche du Temps Perdu) bằng cách dựng lại quá khứ bằng phương tiện nghệ thuật. Phải chăng vì tha thiết tìm lại quá khứ nên phần đông người Huế có tâm hồn nghệ sĩ và có khuynh hướng thích sáng tạo nghệ thuật?
Những “dáng xưa” được khơi lại bằng bình tượng nghệ thuật mang tính chất điển hình của quê hương, đất nước mà hầu như người Việt nào cũng đã một lần trải qua: Từ con nước lũ trên sông Hương đến chuyện đau buồn trong trại cấm Chimawan, nỗi gian truân trong cuộc đời mới tranh sống ở Mỹ, những xúc cảm bàng hoàng và bất chợt của Việt kiều trong một chuyến về thăm lại quê hương… phản ánh nỗi xót xa chung cho kiếp người, nhưng đặc biệt là đối với thân phận của người Việt xa xứ và nhất là người Huế xa quê. Trong một góc kín của tâm tư và đời sống, chuyện kể của Trần Kiêm Đoàn đã lay động được từng li ti cảm xúc của người đọc. Đây chính là nơi biểu lộ rõ nét nhất cái tài và cũng là cái tâm của tác giả. Tiếc nuối về một “thiên đường đã mất” thiên trường thi bất hủ “Paradise Lost” của John Milton (1608 -1674) đã lay động vùng trời thi ca hàng thế kỷ chỉ vì thi hào đã làm sống lại một thế giới vườn địa đàng định hình trong ý niệm. Đối với giới nghệ sĩ Việt Nam viết về Huế thì cái hồn thiên cổ của Huế chỉ có một nửa nằm ở non nước hữu bình, còn nửa kia thuộc về thế giới ý niệm nên “anh trở về hoá đá phía bên tê” (Thu Bồn). Và đến Trần Kiêm Đoàn thì thế giới ý niệm về Huế chỉ còn là chiếc bóng: Phải chăng Huế là cái bóng vĩnh cửu của những linh hồn xa xứ. Hình như Huế đích thực là một quê hương không có thật, Huế chỉ là một đốm lửa xanh trời mơ ước của Chế Bồng Nga; một chút hồn thiên cổ của đám ma Hời phiêu bạt?!
Khác với Chuyện khảo về Huế trước đây, Con yêu bánh nậm là chuyện kể về chặng đường lớn sôi nổi nhất của đời người. Trong mỗi giai đoạn, với tâm khảm khác nhau, chuyện được thể hiện qua thần trí và bổn tính khác nhau. Nhưng dù nơi đâu, hoàn cảnh nào, yêu thương vẫn là cốt lõi trong nhân sinh quan của tác giả mà nhiều nhân vật khác nhau trong từng câu chuyện đã nói lên khái niệm đó.
Tình yêu Huế và tình người; hồn xứ người và tâm cảnh bên kia “với tác giả” không vì thời gian, không gian mà phai nhạt được. Con Yêu Bánh Nậm, trong một góc độ nào đó của nghệ thuật đượm mầu nhân bản, đã làm tròn được nội dung đó.
Trên những chặng đường sáng tạo và khai phóng của văn chương, sự so sánh nào cũng ít nhiều khập khiễng. Tuy nhiên, trên từng trang trong tập, đâu đây, có thể thấy được hồn quê của Thanh Tịnh, tiếng cười của Nguyễn Khoa Vy và lòng hoài cổ trong hồn thơ Ưng Bình Thúc Giạ Thị. Huế bàng bạc trong đó.
Trong lĩnh vực thi ca và nghệ thuật, chưa có một vùng đất nào trên quê hương Việt Nam được đưa vào văn chương, hội họa, âm nhạc cổ kim hoà điệu cùng ca vũ với nhiều nét đậm đà và đầy màu sắc như Huế. Đã có rất nhiều người viết về Huế, nhưng viết bằng cảm xúc sâu lắng, với tri thức tịnh tâm đượm nhuần Phật lý và nỗi đam mê chân quê rất Huế như Trần Kiêm Đoàn trong Tu bụi, Từ ngõ Huế Xưa, Về Huế, Con yêu bánh nậm… thì hầu như rất hiếm thấy.
Đọc cũng là sáng tạo, nên bạn đọc đi vào thế giới Con yêu bánh nậm của Trần Kiêm Đoàn, có thể, mỗi người sẽ tìm thấy một cảm nghĩ khác nhau. Sự đa dạng lại là yếu tính của văn học nghệ thuật, nên nếu có nhiều cách nhìn và nhiều khuynh hướng nhận định không cùng lăng kính hay góc độ càng hay, vì nó chứng tỏ tác giả đã gói trọn được nhiều tâm tình để nhiều người cùng cảm nhận và san sẻ tùy theo cảm quan, kinh nghiệm sống và ấn tượng nghệ thuật của mình.
Los Angeles. Tháng 6 năm 2003
Hà Thanh, tiếng hát của dòng sông xanh
***
Gọi tên hoa súng: Lục Hà
Gọi thôn Liễu Hạ: quê nhà bên sông
Gọi Trần Kiêm: họ sắc… không
Gọi Hà Thanh: tiếng hát dòng Hương Giang
Có hai gã Trần Kiêm lang bạt xa quê gặp nhau bên trời Tây cùng nói về một nhân vật. Thi sĩ Kiêm Thêm nói về “mụ O” và tôi nói về “bà Chị” nghệ sĩ của mình là ca sĩ Hà Thanh bằng một mẫu “sơ yếu lý lịch” hợp soạn hòa âm rất chơn chất và… nên thơ như thế đó.
Thuở nhỏ ở làng Liễu Hạ, tôi thường lên mặt hãnh diện khi cuối tuần ngồi quanh cái “Ra-dô” ở làng với bọn nhóc tì trong xóm nghe chương trình ca nhạc của ban Việt Thanh ở Đài phát thanh Huế, mà trong đó, Hà Thanh, bà chị họ của tôi, là ca sĩ… hát hay nhất. Nhóm bình luận gia âm nhạc chân đất làng tôi từ sáp nhỏ cho đến người lớn chẳng biết có mang hội chứng “trái ấu” hay không, nhưng ai cũng xuýt xoa khen giọng hát Hà Thanh thuở đó là “hay nhứt xứ”.
Làng Liễu Hạ và họ Trần nhà tôi – có lẽ luôn cả Huế – hầu hết là những rặng thông già kẻ sĩ không lớn kịp với mùa Xuân nghệ sĩ đang lên. Đó là hiện tượng nghịch lý rằng, ai cũng mến mộ giọng hát của Hà Thanh, nhưng lại ái ngại khi một cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế, ái nữ của một gia đình nho phong “êm đềm trướng rủ màn che” trở thành ca sĩ. Nhất là dòng họ Trần Kiêm chúng tôi có bác Trần Kiêm Phổ làm Trưởng tộc thì lại càng quan tâm nhiều hơn. Bác “Trợ Phổ”, thân phụ của chị Hà Thanh, với dung mạo uy nghi, thường cầm cân nẩy mực cho cả dòng họ, nay lại cho phép chị Hà đi hát công khai trên Đài phát thanh, thì quả là một cuộc “đại cách mạng” trong quan niệm truyền thống còn mang nhiều định kiến của đất lề, quê thói rất Huế đương thời.
Ngày đó, khu nhà vườn cổ kính ở mé này nhánh sông Hương nối liền với sông An Cựu nắng đục mưa trong; ngó qua mé bên tê sông là trường Pellerin vẫn thường được giới nam nhi Huế ròng và Huế “bậu” – bắt chước Lan Đình gọi là “Vườn Thúy Hạnh” vì một nhà mà có nhiều hơn cả “ngũ long công chúa”, đều mang tên chữ có bộ thảo và rất chi là… tường Đông ong bướm đi về mặc ai: Tố Cần, Hà Thanh, Phương Thảo, Liên Như, Thúy Vy, Bạch Lan, Hoàng Mai.
Đời nghệ sĩ của Hà Thanh bắt đầu từ năm 1953, lần đầu Đài phát thanh Huế mở một cuộc tuyển lựa ca sĩ với quy mô lớn. Anh Trần Kiêm Tịnh biết cô em gái mình có giọng hát hay quá nên đã dắt em đi thi. Điều kiện ghi danh dự thi là phải từ 15 tuổi trở lên. Ngày đó, Lục Hà, cô nữ sinh áo trắng nón bài thơ Huế mới 14 tuổi, nên phải “kiếm thêm một tuổi trời cho” nữa mới đủ tuổi dự thi và kết quả đứng đầu cuộc thi. Tuy ông cụ thân sinh chị Hà Thanh là người theo Tây học với tinh thần cởi mở phương Tây, nhưng “phương Tây Huế” thuở đó cũng vẫn còn trong mẫu mực nho phong. Nhạc sĩ Ngô Ganh là Giám đốc Đài phát thanh Huế đương thời, phải dùng uy tín của mình đến nhà năn nỉ, rằng: “Học hành thì đứa nào học chẳng được, nhưng còn cái tài của cháu Hà Thanh là một tài năng độc đáo, có giá trị cả nước Việt Nam. Nếu không cho đi hát thì tài năng sẽ bị mai một, uổng lắm!”. Ông cụ nghe lời minh giải hợp lý nên cho đi hát ở Đài phát thanh mà thôi, không hát ở phòng trà hay sân khấu. Từ đó, tiếng hát Hà Thanh đã vọng ra xa hơn bên ngoài rào dậu “Vườn Thúy Hạnh”.
Người ta vừa thưởng thức giọng hát thanh thoát, mượt mà (uyển thanh) như tiếng sông Hương đang lên của Hà Thanh; nhưng đồng thời cũng vừa quan sát nàng ca sĩ xứ Huế đó như một hiện tượng. Nói về giọng hát thiên phú của Hà Thanh, đã có rất nhiều văn nhân, thi sĩ, nhạc sĩ… nhiệt thành khen tặng. Một vị thầy âm nhạc của tôi ở trường Hàm Nghi Huế là nhạc sĩ Văn Giảng (cũng ký tên là Thông Đạt, tác giả Ai về sông Tương…) đã cho rằng, Hà Thanh là một ca sĩ tiêu biểu của Huế. Chị có một giọng hát thanh tao, quý phái với mức thể hiện cường độ và trường độ âm thanh vừa vặn, diễn cảm tuyệt vời. Đặc biệt là những luyến láy mềm mại rất có hồn và gợi cảm trong tiếng ca. Luyến láy mà không làm điệu tới mức uốn lượn quanh co thành ra làm dáng trình diễn là nét độc đáo nhất trong tiếng ca Hà Thanh.
Nhân dáng, điệu bộ trình diễn và phong cách sinh hoạt đời thường cũng như trong hội diễn vẫn bị xem là một “đại nghiệp dĩ” của người ca sĩ. Nếu như nói theo Đào Uyển Minh, nhà phê bình nghệ thuật Đài Loan khi nhận định về Quỳnh Dao, thì phong thái của một nghệ sĩ là “sự biểu hiện cụ thể của một chuỗi phản ứng tâm lý có điều kiện khi tài năng thiên phú đối mặt và tương tác với trình độ giáo dục, hoàn cảnh xã hội và xu hướng nghệ thuật của thời đại” thì quan niệm này có vẻ sát hợp với Hà Thanh. Chị sinh ra và lớn lên ở Huế. Huế được người đời nhớ nhung và yêu thương không chỉ vì Huế đẹp, Huế thơ mà còn vì Huế là vùng đất của nhiều tai trời ách nước; chịu nhiều oan khiên và đổ vỡ tan tác từ thuở công chúa Huyền Trân đổi mình cho Huế, áo xiêm phiêu bạt về Chiêm quốc. Cho nên, hầu như tất cả nghệ sĩ xứ Huế đều không có sự biểu hiện táo bạo, vỡ bờ, chinh phục để cuốn hút khách thưởng ngoạn qua dáng vẻ bên ngoài. Đấy cũng là cảm nhận của Thu Bồn, một nhà thơ xứ Quảng: “… sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu.”
Nhà thơ Nhất Tuấn, tác giả “Chuyện chúng mình” vang tiếng một thời, nói về Hà Thanh như sau: “Tôi có dịp gặp Hà Thanh khi làm quản đốc Đài phát thanh Quân đội tại Sài Gòn. Hà Thanh lúc đó hát rất hay và xuất hiện thường xuyên trên các đài phát thanh. Hà Thanh càng ngày càng nổi tiếng. So với những ngày còn ở Huế, sự giao thiệp của Hà Thanh có phần bạo dạn hơn đôi chút, nhưng vẫn còn dè dặt và giới hạn lắm. Thời này Hà Thanh hát nhiều bài của Nhất Tuấn do Phạm Duy, Đan Thọ, Hoàng Lan phổ nhạc. Đặc biệt là Hà Thanh hát rất nổi tiếng những nhạc phẩm của Nguyễn Văn Đông và nhạc tiền chiến của Đoàn Chuẩn, Từ Linh. Bài nào Hà Thanh hát lên cũng làm người nghe rung động vì khi hát nàng để hết tâm hồn vào lời thơ, ý nhạc của tác giả muốn gởi gắm trong bài. Hà Thanh như “nhập” vào bài hát để diễn tả, để làm toát lên giọng Huế rất dễ thương”.
Tác giả Chuyện chúng mình mô tả Hà Thanh: “Dáng người thanh tú, cao cao, nụ cười vui tươi luôn nở trên môi với nét mặt rạng rỡ. Tính nết Hà Thanh nhu mì, hiền dịu, khác biệt trong giới nghệ sĩ”.
Và nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương đã “phong Huế” cho Hà Thanh, rằng:
“Dáng nhỏ nhắn, thanh thoát, dịu hiền, khiêm tốn; tuy tươi mát, thân tình, nhưng cũng rất e dè và chừng mực của Hà Thanh là nét tiêu biểu cho con người và phong thái của “vùng đất khó… Huế”.
Những góc nhìn và cách nhìn có thể khác nhau về một Hà Thanh ca sĩ, nhưng hình ảnh và nhận định về một Hà Thanh hiện thực vẫn là chung nhất. Đó là một Hà Thanh mà về hình tướng, cũng như về phong cách sinh hoạt và trình diễn văn nghệ rất tiêu biểu cho “tính Huế” đã ăn sâu trong từng nỗi niềm nhớ Huế: Sâu lắng, nồng nàn, trang trọng, tài hoa.
Chị Hà Thanh sang Mỹ năm 1984. Có những cây cầu đã gãy trong chiến tranh và những mối tình gãy đổ sau cuộc chiến. Trong cảnh “trải qua một cuộc bể dâu”, Hà Thanh tìm về với thiền học, thiền định và thiền ca. Những bản nhạc Thiền do Hà Thanh hát hoặc vừa phổ nhạc thơ thiền, vừa ca mang âm hưởng thâm trầm, gợi cảm mà gần gũi của nước “sông An Cựu nắng đục mưa trong” và sự lắng đọng thấm vào lòng người của hồi chuông Thiên Mụ. Những khi buồn nhất và lắng lòng chiêm nghiệm từng vọng âm suy tưởng từ tâm mình, tôi lại thích nghe thiền ca do Hà Thanh hát. Giọng hát đậm đà còn mang cái gốc thanh âm giọng Huế của chị làm cho người nghe có cảm tưởng như đang nghe những lời tự tình của Huế. Nghe Hà Thanh hát thiền ca, người ta bỗng quên đi sự hiện hữu của thời gian đã làm cho đời phôi pha và quên luôn khoảng cách thời gian làm nên tuổi tác của chị. Một cảm giác thanh tân, tươi mát và lắng đọng đầy ắp lòng người chợt đến, chợt đi hay thấm đượm vào trong cảm xúc.
Khán giả ái mộ Hà Thanh liên tưởng đến nguồn Thiền đang tưới tẩm bản chất nghệ sĩ của chị khi chị xuất hiện gần đây trong các cuộc trình diễn và thu băng gây quỹ từ thiện, cũng như trong các chương trình nhạc hội Asia, Paris by Night với dáng vẻ trẻ trung, tươi mát như cả mấy mươi năm về trước. Trong thế giới ca sĩ trẻ đang lên, Hà Thanh không bị chiếc cầu thế hệ ngăn cách; trái lại, chị đã làm cho khán giả ái mộ cảm động và thưởng thức giọng hát vẫn trong ngần, quý phái của chị trên nẻo về gần “thất thập cổ lai hy.”
Hà Thanh có một chỗ đứng riêng trong lịch sử tân nhạc Việt và một vị trí độc sáng trong lòng người yêu nhạc xứ Huế.
Nửa thế kỷ, những dòng sông xanh vẫn luân lưu chảy. Tiếng hát vượt thời gian của Hà Thanh vẫn còn xanh mát như tên chị, như những dòng sông xanh mà muôn đời con nước vẫn đang về, đang tới. Và nói thêm bằng những nét chấm phá thi vị như một nhà thơ nào đó, “…có một chút gì rất Huế, rất thương… Có một chút gì rất Huế trang đài…” trong tiếng hát Hà Thanh.
Natomas, tháng giêng 2007
Chú tôi và quê hương
Nếu chú tôi chỉ là một người chú sinh ra ở làng Liễu Cốc Hạ, rồi lớn lên, có gia đình con cái, siêng năng làm ăn, già đi và qua đời thì có lẽ tôi chỉ nhớ chú và nhắc thầm trong lòng như bao nhiêu người thân thương, ruột thịt khác mà thôi. Nhưng đây là chú Thêm, thi sĩ Kiêm Thêm, là một người đặc biệt. Nghe ôn mệ và bà con trong làng kể lại thì chú là một người yêu thơ từ thuở mới vào đời như nông dân làng tôi yêu luống cày, ruộng lúa. Và nữa, nếu chú tôi làm thơ vì nghiệp văn chương để nói toàn chuyện trên trời dưới đất như bao nhiêu người cầm bút khác thì hẳn nhiên là tôi cũng không cảm thấy được nguồn xúc động dâng trào để da diết nhắc đến ông chú ruột của mình trong ngày kỵ đầu thường gọi là Tiểu tường của chú. Nhưng chú tôi làm thơ như người cấy lúa, cuốc đất rang, đạp xe phở ở làng. Bình thường thì chắt chiu làm ăn nhưng khi đất nước cùng đứng lên như thời chống Tây xâm lăng thì dân cày cũng yêu quê hương làng xóm nên vác cuốc, vác cày tiếp ứng…
Ai là con dân lớn lên từ ruộng đồng Liễu Hạ trong độ tuổi cha, chú của tôi khi được hỏi về chú Thêm đều tươi cười, thương tưởng mà nhắc đến “thi sĩ làng mền” Kiêm Thêm, bóng dáng đã bao lần sớm sớm, chiều chiều ngồi ở Bến Đình sang sảng ngâm thơ, những vần thơ quê hương lãng mạn mà thấm thía, đẹp như hò vè ca dao của quê hương tôi. Đó là những bài thơ đậm đà cảm xúc yêu quê hương có nhiều trong những quyển thơ đầu tay của chú như Cọng Rơm và Giã Biệt, Kiêm Thêm đứng trước trường Đồng Khánh, Tuý Liễu ca… mà chú đã sáng tác từ thời còn đi học. Nhắc thơ chú, giới văn bút thường nhắc đến hơn 30 tập thơ của chú đã phát hành trong hơn nửa thế kỷ qua; nhưng tôi vụng về thơ nên chỉ còn lõm bõm nhớ đôi câu thật ngộ như khi chú ví mình là “con chim sẻ tha từng cọng rơm, bấy nhiêu tháng, bấy nhiêu năm xây hoài hạnh phúc…”; “Quê hương trải qua nhiều gian nan với biến cố chiến tranh, phân hóa tình người và chia lìa nguồn cội, nhưng Kiêm Thêm thì vẫn vươn lên từ hồn thơ riêng một cõi để vịn thơ mà đứng dậy; yêu thương quê mẹ, quê người…” như thi sĩ Nguyên Sa viết giới thiệu về thơ Kiêm Thêm.
Đối với những người dân vùng Hương Trà, Thừa Thiên Huế và có khi cả nước đã có bao nhiêu người hỏi: “Có phải làng Liễu Cốc Hạ của thi sĩ Kiêm Thêm không?” Cám ơn chú, cám ơn thi sĩ Kiêm Thêm đã bao năm vắt tim óc làm thơ và đã gởi thơ bay xa cho nhân gian biết đến làng mền.
Ôn Trần Kiêm Đoàn viết về nhà thơ Kiêm Thêm (mà cũng là viết về người cháu họ, hơn mình 6 tuổi) ngày chú mất như sau:
Một thời, khoảng thập niên 55- 65, Kiêm Thêm nổi danh trong giới học sinh, sinh viên Huế khi bản lĩnh khoác thêm trên vai áo học trò của mình chiếc áo phiêu linh của chàng thi sĩ lãng tử tài hoa qua những dòng thơ phiêu dật:
Ô hay Xuân ngã trong lòng rượu
Nhân thế nhìn nhau lảo đảo cười!
Có thể nói nghiệp thơ đến với Kiêm Thêm ngang tầm với tuổi đời của mình, nên “Thơ là con đường tình một đời” của chàng. Kiêm Thêm đã làm thơ từ khi tôi còn là một chú bé quê học ở trường làng. Thuở ấy, ở những vùng quê như làng Liễu Hạ của chúng tôi được lên “dinh” học đã là khó khăn lắm rồi. Lại có gã học trò còn được gọi là “thi sĩ Kiêm Thêm” thì thật là … điểm nóng đầy thu hút cho bao nhiêu cặp mắt xanh, nhất là của những nàng thôn nữ xinh như lúa mới… liếc về. Tình yêu một đời đậm nhạt trong thơ Kiêm Thêm đều khởi điểm từ đó.
Thơ của Kiêm Thêm vốn đã lấp lánh mực xanh, mực tím của tuổi học trò, có bóng dáng của mấy o nữ sinh Đồng Khánh; nay, còn thêm hương vị nồng nàn của tình tự quê hương, đất nước thì có túi thơ nào chở hết!
Là một người mỗi nửa đời ở một nửa quanh vòng trái đất, tôi ngạc nhiên kỳ thú là người ta biết danh thi sĩ Kiêm Thêm cũng như ca sĩ Hà Thanh (bà O của Kiêm Thêm) gốc Huế trước khi biết đến tên làng Liễu Cốc Hạ, xã Hương Cần của mình…
Chú ơi! Tên tuổi chú đã vang xa trong lòng đất nước và ra tầm thế giới như thế, nay lại càng đi xa hơn tới quê hương ôn mệ mà ai rồi cũng phải quay về.
Và chú đã về với quê hương, với làng nước, với đàn con cháu thân yêu đúng một năm rồi… Hôm nay con cháu thân yêu nhớ về chú với nén hương lòng đầy cảm xúc… Một năm hay nhiều năm sau nữa chú mãi còn hiện hữu, mãi mãi đầy thương yêu trong lòng của chúng con.
Cọng rơm ngày đó vẫn còn,
Nay không giã biệt nửa hồn xa quê…
Chú hỉ!
Với quê nhà… không là cọng rơm và giã biệt nữa.
Thương nhớ chú nhiều… chú tôi Trần Kiêm Thêm.
Liễu Cốc Hạ, ngày 11 tháng Chạp năm 2021
Gái Bắc vào làm dâu xứ Huế
(Bài đăng trên báo Pháp Luật TP.HCM Chủ Nhật, ngày 28/6/ 2015)
BBS: Quan niệm “lấy chồng hoặc vợ cùng làng như vàng treo cửa ngõ” đã thành quá khứ. Ngày nay, cảnh gái Bắc lấy chồng Nam hay ngược lại – và thực tế việc kết hôn với người nước ngoài đã trở thành phổ biến trên thế giới, như dòng chảy tự nhiên của thời đại.
Bài viết của Đặng Thuý Ngần, một cô gái Thái Bình kể ngày từ giã quê hương mình, theo chồng là Trần Kiêm Hạ vào làm dâu làng Liễu Cốc Hạ mang tâm trạng như công chúa Huyền Trân vào làm dâu miền châu Ô, châu Rí cách đây bảy thế kỷ. Đây là một bài viết rất cảm động và đầy thú vị. BBS cũng nhân đây cám ơn nàng dâu người Bắc đã sửa bản in cho tập sách Lược sử làng Liễu Cốc Hạ này.
Sau bốn năm xa nhà để học hành, tôi về gặp mẹ mình với tâm trạng của một tội đồ!
Vừa đặt chân vào nhà là tôi đã lao tới ôm chầm lấy mẹ. Không ngờ chưa đầy một năm xa cách mà mẹ tôi lại già nhanh đến vậy. Mẹ đang ngồi trên chiếc chõng tre, trời vừa chớm thu, gió heo may chưa về mà khăn đã trùm kín đầu. Thấy tôi, mẹ cất lên mấy tiếng “Con về đấy ư…” rồi ôm ngực ho sù sụ…
Hôm sau tôi ra đồng làm việc, biết tôi vừa tốt nghiệp Cao đẳng, bà con lối xóm xúm lại chia sẻ, nhắn gửi: “Mừng cho u mày quá, trồng cây đã đến ngày hái quả rồi” hoặc “Trông mẹ mày như con cá mắm mà ra đồng làm việc, chúng tao ái ngại quá!”. Những câu thân tình ấy đã như ngọn lúa cứa vào tim tôi. Để rồi sau đó cứ định mở miệng nói với mẹ cái điều đang làm mình ưu tư thì cảm giác bất nhẫn lại dâng lên ngập lòng. Chỉ gần đến ngày trở lại trường, lúc ấy trời sẩm tối, cả nhà vừa ăn cơm xong, mấy đứa em bê bát đũa ra cầu ao rửa, chỉ còn hai mẹ con, tôi cố lấy hết can đảm nói lên điều đó: “Mẹ… cho con… lấy chồng miền Nam và…vào trong ấy làm việc nhé?”.
Mẹ nhìn tôi một thoáng sững người. Tuy chưa nói gì nhưng đêm ấy cái chõng tre mẹ nằm nghe èo ẹo suốt.
Ngày tôi trở lại trường nhận bằng tốt nghiệp, tiễn tôi ra đến cổng làng, cầm tay tôi giọng mẹ tha thiết: “Phận đàn bà sướng khổ từ chuyện chồng con. Mẹ không cấm việc con lấy chồng xa, chồng gần nhưng hãy suy xét cho chín chắn con ạ!”.
Nửa ngày đường ngồi trên xe mà nước mắt tôi cứ chực trào ra. Đã bao lần rồi, cứ tiễn người thân ra đến cổng làng là giọng mẹ lại trầm buồn, rồi khi về nhà ngồi tựa cửa mà lấy lai quần chặm nước mắt. Bố đi biền biệt qua hai cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, mẹ quanh năm lẻ bóng nuôi đàn con thơ mà sinh lao lực. Cuộc chiến cơm gạo ở hậu phương với mẹ xem ra còn cam go hơn ngoài mặt trận của bố nhiều. Bố có thể yên lòng cầm súng xung phong rồi nằm xuống. Còn mẹ, nuôi cả đàn con dại lúc nào cũng như chim non háu đói. Mẹ không được gục ngã, ốm đau cũng phải lê lết ngoài đồng. Lặng lẽ nuôi con, lặng lẽ mang khát vọng hết chiến tranh rồi chồng sẽ trở về chung vai xây tổ ấm với mình. Nhưng mơ ước của mẹ đã không thành. Bố cũng trở về nhưng mang thương tật, sức khoẻ không còn như xưa nữa.
Cuộc sống gia đình vẫn không khá hơn xưa, vậy mà ngày tôi đỗ Cao đẳng, mẹ không ngớt động viên hãy lên đường nhập học để rồi càng oằn vai với bao công việc ở quê nhà.
Gần đây sức khỏe mẹ trở nên sa sút, việc đồng áng phải cậy nhờ vào đôi vai nhỏ nhắn của đứa em gái mới lớn, vậy mà sao tôi lại nỡ…! Những ngày xa nhà học tập, chuyện yêu đương tôi dặn lòng khép lại. Nhưng tình yêu thì như tơ trời vương vấn lòng người trăm nẻo. Quả là nan giải khi mới nghĩ đến chia tay với anh ấy là lòng tôi đã đau vời vợi rồi. Biết tìm đâu ra người hòa hợp cả tâm hồn và lẽ sống với mình như anh ấy? Một thoáng suy tư thoáng qua mắt tôi là anh đã tìm cách chia sẻ. Hài hước mà lại sâu sắc, bên anh tôi luôn có cảm giác nhẹ nhàng và bình yên hơn. Bỏ mẹ theo anh thì bất nhẫn, tôi không đành. Biết lòng tôi đang dậy sóng, anh ấy nói: “Hãy đưa anh về thăm gia đình em đã, rồi tùy hoàn cảnh mà tính…”.
Xóm nghèo quê tôi nằm chơ vơ ven bờ sông Bôi, Thái Bình. Tin tôi đưa người yêu là người miền Nam về ra mắt gia đình chẳng mấy chốc lan nhanh khắp xóm. Tối ấy vừa ăn cơm xong thì bà con đã đốt đèn đến thăm nhà tôi nườm nượp. Bố tôi vắng nhà vì đi an dưỡng. Mẹ tôi làm mặt tươi tắn, luôn miệng mời bà con ăn bánh, hút thuốc nhưng lại khéo léo từ chối “cái anh kia” chỉ là khách đến chơi nhà thôi mà!
Khuya, khi bà con đã về, điền vào cái khoảng lặng ấy là tiếng giọt mưa rơi tí tách ngoài hiên nghe mồn một. Qua đi cái giây phút vui rộn ràng “giả tạm” đó thì cái chõng tre mẹ tôi nằm lại nghe èo ẹo! Giường bên kia không biết anh ấy nghĩ gì mà ngồi rít thuốc lá đỏ rực. Tâm tư tôi cũng bắt đầu xao động. Có phải mẹ tôi đang buồn vì câu “Có phúc gả con chồng gần…”? Còn anh ấy chắc đã nản trước thái độ khước từ khéo léo chuyện rể con của mẹ? Trời về khuya rét đậm. Có lẽ do hít nhiều khói thuốc của bà con ban nãy, hoặc quá rét mà mẹ tôi ho liên tục, rồi lên cơn hen nặng, mặt tím tái do bị co thắt phế quản. Bệnh mẹ đã thành mãn tính mấy năm nay rồi. Tiêm cho mẹ là việc của đứa em gái tuổi mười lăm. Nó được tập huấn kỹ và đã quen việc. Biết tôi toan lấy chồng xa, nó căm hờn lắm. Trước khi bỏ sang nhà hàng xóm ngủ nhờ, nó ngúng nguẩy liếc anh ấy thiếu đường rách mắt, rồi chu miệng vào tai tôi mà nói: “Đồ phản bội”! Biết tìm con bé đỏng đảnh ở đâu trong lúc cấp bách này? Tôi làm liều, cầm xi lanh và ống thuốc mà run vì chưa tiêm cho mẹ lần nào. Giữa tình thế đó thì anh ấy bước tới, nhanh chóng sát trùng, rút thuốc vào xi lanh và tiêm cho mẹ tôi rất thuần thục. Mấy phút sau da dẻ mẹ hồng hào trở lại…
Quê tôi ăn Tết thật muộn. Những ngày cuối năm, chiếc loa phóng thanh hợp tác xã cứ ra rả câu khẩu hiệu: “Xuân không nồng khi ngoài đồng chưa xuống hết giống” làm ai cũng nóng ruột. Ngày hôm sau là tôi đã ra đồng làm việc với bà con rồi. Phần anh ấy thấy cảnh nhà thiếu bàn tay đàn ông, cũng ra vườn chặt tre chẻ lạt che chắn phên vách và dọi chỗ tranh bị dột. Tối đến, anh lại cùng đứa em trai tôi ra bờ sông úp cá. Anh có tay sát cá thật! Mẹ tôi vốn thảo ăn đem biếu khắp xóm, làm cho bà con hết lời trầm trồ khen ngợi “tài năng” của anh “rể” quý.
Ngày trở lại trường đã gần kề, vậy mà anh chưa có kế hoạch gì làm tôi sốt ruột quá. Đã thế lại còn dại miệng làm tình hình tồi tệ hơn. Bữa ấy, sau khi đem cá biếu hàng xóm về, giọng mẹ cởi mở hỏi anh: “Nghe nói nhà trường giữ lại cả hai đứa làm giáo viên, sao cháu không ở lại mà về quê làm cho cái Ngần khó xử?”. Anh ấy thưa: “Dạ, hoàn cảnh cháu ngặt lắm, mùa gặt vừa rồi mẹ cháu gánh lúa ngã cầu khỉ không đi đứng được, hai em thì còn quá dại…”. “Vậy bố cháu đâu?”. “Dạ, ba cháu mất ở chiến trường Quảng Trị…”. Mẹ tôi lặng người. Bố tôi cũng bị mang thương tật ở chiến trường ấy vào mùa hè năm 1972. Có khi nào họ là đồng đội của nhau không nhỉ? Mẹ gấp gáp hỏi: “Cháu có biết tên đơn vị bố không?”. “Dạ, cháu không biết nhưng cha cháu là lính… Cộng hòa”. “Hả!”. Mẹ tôi buột miệng thành tiếng rồi mặt mày tái mét như bị trúng gió. Tôi biết cái định kiến xưa nay ngự trị trong lòng mẹ vẫn còn đó.
Chính những người lính Cộng Hòa đã chĩa súng vào Bố, biến bố thành thương binh! Không nói thêm nửa lời, mẹ lặng lẽ lên giường nằm. Cái chõng tre đêm ấy lại càng nghe èo ẹo.
Tôi đã không còn gì để hy vọng. Chuyện tình duyên hai đứa đã bị anh ấy vô tình đưa ra pháp trường rồi. Đụng đến vết thương lòng của mẹ thì chỉ có trời cứu! Sau mấy ngày buồn rười rượi, mẹ giục tôi sang thăm quê ngoại cách nhà một cánh đồng. Anh ấy mang bộ mặt đưa đám lẽo đẽo theo sau tôi. Tối về, vừa ăn cơm xong mẹ bảo hai đứa ngồi lại để nói chuyện. Nghe thế tôi lo lắm. Ngồi một chặp, mẹ nói với anh ấy: “Mấy đêm không ngủ được bác đã thấu hiểu phận đàn bà thời chiến chinh, dẫu ở bên nào thì nỗi đau mất mát cũng giống nhau. Bác ngẫm mình vẫn còn may, còn đi lại được, em gái con tuy còn nhỏ nhưng cũng cậy nhờ được rồi. Tội nghiệp mẹ con trong đó, nằm liệt giường mà phải nhìn đàn con dại không ai chăm sóc, chắc đau lòng lắm!”. Lại lấy cái lai quần chậm nước mắt, mẹ nói tiếp: “Cho con gái đi lấy chồng xa là mẹ như đứt cả núm ruột, nhưng yên dạ phần nào vì con rể là đứa tảo tần, biết sống. Đám cưới các con vì sức khỏe mẹ không vào được, thôi thì có chút tiền gọi là cho con gái đi lấy chồng. Hãy cầm lấy cho mẹ yên lòng…”.
Hai đứa tôi không thể ngờ, cái định kiến sâu thẳm trong lòng mẹ vì thương con mà được khỏa lấp nhanh đến thế. Lại còn tiền đâu mà mẹ có nữa chứ? Đang phân vân thì đứa em gái đứng ngoài nói chen vào: “U vừa bán lợn đấy!”. Tôi tức tốc chạy ra chuồng lợn thì hỡi ơi con lợn đang sức ăn sức lớn, là món tài sản duy nhất để cứu đói cho gia đình đã không còn!
Miền Nam vào những năm 1980 vẫn còn xa xôi và lạ lẫm với bà con quê tôi lắm. Với bà con thì từ vĩ tuyến 17 trở vào là miền Nam. Những chú đi bộ đội có mặt từ thành phố Hồ Chí Minh trở về thì miền Nam là hoa lệ, giàu có – những chú tham gia mặt trận Bình Trị Thiên (quê chồng tương lai của tôi) thì miền Nam là rừng sâu, núi thẳm là vùng đất khô cằn sỏi đá. Bà con đến nhà tôi để chia tay người con gái quê mình đi lấy chồng miền Nam râm ran như vậy, càng làm cho tâm tư tôi thêm nặng trĩu…
Trên chuyến tàu theo chồng vào Nam hôm đó, tâm tư tôi ngổn ngang trăm nẻo, có thể nói không khác gì tâm trạng Huyền Trân công chúa từ giã đất Thăng Long vào đất Chăm lấy Chế Bồng Nga. Đêm xuống, qua khung cửa con tàu, ánh đèn dầu nhà ai khi tỏ khi mờ lùi dần theo bánh con tàu quay, làm cho quê hương trong tâm tư tôi thêm xa diệu vợi. Rồi vẳng bên tai tôi giọng mẹ cứng rắn như thể đêm qua không phải người đã khóc hết nước mắt: “Lấy chồng thì phải theo chồng, chồng đi hang rắn, hang rồng cũng phải theo, nghe con!” – “Con đến đất khách quê người nhớ giữ gìn sức khỏe mà còn có ngày về thăm mẹ nghe…”. “Vâng… thưa mẹ!” – Lúc đó lời tôi nghẹn lại và quay mặt dấu mẹ hai giọt nước mắt. Nhưng giờ đây thì tôi cứ để mặc cho nước mắt mình trào ra ào ạt!
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 6 năm 2015
LIỄU HẠ QUÊ TÔI
BBS: Lịch sử làng Liễu Cốc Hạ ngày càng mở rộng theo thời gian và hoàn cảnh xã hội.
Khởi thủy từ Bắc vào Nam đến Tháp đôi Liễu Cốc 500 năm trước, dân làng Liễu Cốc Hạ đã tỏa ra nhiều nơi theo nhu cầu cuộc sống. Nhờ ân đức tổ tiên mà con cháu trong làng lập nghiệp ngoài làng đại đa số đều thành công nhiều mặt. Đầu năm Quý Mão 2023, ông Trần Kiêm Long đời thứ 14 chi nhất về thăm làng và mồ mã tổ tiên đã xúc cảnh sinh tình làm bài thơ Liễu Hạ Quê Tôi.
Vì ý nghĩa bài thơ nói lên lòng tự hào và niềm cảm xúc về nòi giống tổ tiên cũng như phương danh làng Liễu Cốc Hạ, mặc dù tập Lược sử làng đã lên khuôn, nhưng phút chót vẫn tranh thủ đăng bài thơ này. Xin được giới thiệu với bà con:
Liễu Hạ Quê Tôi
Vẳng tiếng hò từ thuở nằm nôi
Cha ông ta đã bao đời gầy dựng
Từ Bắc vào Nam tạo nên đất đứng
Hơn năm trăm năm từng lược sử ghi tên
Mặc định thiên lương hậu duệ lưu truyền
Từng tấc đất khắp miền nêu danh tiếng
Đất phú trời ban phong cảnh thiên nhiên
Sông Bồ trong xanh non nước hữu tình
Hoa đậu vàng tươi dòng đời mong ước
Bắp trổ râu dài hưởng phước trăm năm
Nhìn hướng Tây trải rộng xa xăm
Lúa xanh mướt nuôi căng bầu sữa mẹ
Lá úa vàng rơm như lời nói khẽ
Thắm tình cha nghe lúa chín cúi đầu
Dù bốn phương trời hay mưu sống nơi đâu
Cũng yêu dấu hướng về quê hương nguồn cội
Hoa trổ đầu xuân, người xoá đi bao nhầm lỗi
Luật ông bà có bắt tội ai đâu.
Nén hương thơm thành kính trên đầu,
Xin khắc dạ mãi lưu truyền nhau ơn cả.
Bởi chúng con là dân làng Liễu Hạ,
Xin khắc tâm và mãi mãi về sau.
***
Bài thơ này được anh Long phổ nhạc như sau:
Ngày đầu năm Quý Mão (2023)