Dấu hiệu thoái trào hay hưng thịnh của một tôn giáo không dễ dàng nhận ra qua cách biểu hiện rõ ràng như trường hợp tương tự của một nền kinh tế hay chính trị. Lý do đơn giản bởi vì bản chất của tôn giáo là đời sống tâm linh. Thế giới tinh thần không có đơn vị cụ thể để cân đo, đong đếm… nên lắm khi sự thịnh suy tôn giáo diễn ra nghịch lý với những quy ước đời thường.
Riêng đối với trường hợp Phật giáo thì dấu chỉ thịnh suy được ghi nhận trên phạm hạnh của giới Phật tử xuất gia và phước hạnh của hàng Phật tử tại gia.
Một luận sư Tích Lan, thầy Anzar Mahadi, cho rằng: Một tôn giáo như Phật giáo có dấu hiệu trên đường đi xuống khi giới Phật tử cao niên muốn đem Đời vào Đạo, chấp nhặt những hình thức lễ nghi cầu kỳ đượm mùi mê tín, bị dính mắc với thế giới hình tướng giả danh, chùa to tượng lớn bên ngoài mà lãng quên tôn tượng và tính Phật có sẵn trong chính mình. Ngược lại, là khi tuổi trẻ Phật tử đem Đạo vào Đời để làm sáng đạo giữa cộng đồng thế giới.
Tuổi trẻ tham gia phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam một thời
Khởi đầu thập niên 1930, noi gương Miến Điện, Tích Lan, Nhật Bản và nhất là Trung Hoa với Thái Hư Đại Sư làm chủ xướng, một phong trào chấn hưng Phật giáo đã hình thành ở Việt Nam. Có thể nói tinh thần cốt lõi trong công cuộc chấn hưng Phật giáo là đem đạo vào đời. Đó là một quá trình hiện đại hóa để khởi động và phát huy vai trò tích cực của đạo Phật, biến tâm linh thuần lý kinh điển thành tâm linh ứng dụng đời đạo hạnh trong cuộc sống. Đặc biệt là khuynh hướng đưa tuổi trẻ vào đạo Phật.
Đầu tiên, tại Sài Gòn năm 1931, Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học ra đời. Sau đó là Hội Lưỡng Xuyên Phật Học do ngài Khánh Hòa, Huệ Quang, Khánh Anh khởi xướng. Tại Trung kỳ, năm 1932 ngài Giác Tiên, Phước Huệ, cư sĩ bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám thành lập Phật Học Hội Trung Kỳ tại chùa Từ Đàm Huế. Năm 1934 ở Ở Bắc kỳ, năm 1934, có ngài Tố Liên, Trí Hải, ông Nguyễn Năng Quốc, Trần Trọng Kim và một số quý ngài thành lập Bắc Kỳ Phật Giáo Tổng Hội. Những hội trên đều có mục đích và chương trình hoạt động giống nhau là chỉnh đốn Thiền môn cho được thanh tịnh, đào tạo một thế hệ mới và hỗ trợ các tu sĩ chân chính có căn bản học thức để hoằng dương Phật pháp.
Cư sĩ Tâm Minh đã cùng với các danh tăng, trí thức Phật giáo, cư sĩ và đại chúng Phật tử có khuynh hướng cấp tiến đương thời đã vực tuổi trẻ dậy. Vực dậy từ bóng mờ bị che khuất sau lưng thế giới người lớn. Các em đã được thế hệ đàn anh thương quý đón mời để dẫn tới trước cửa ngõ Văn hóa Phật giáo. Tuổi trẻ Việt Nam lần đầu được tiếp cận đạo Phật với tư cách của những người trẻ tuổi có tri thức, nhân cách và vị thế riêng chứ không phải là những “ông bà già thu nhỏ” lon ton níu áo chạy theo những cụ già đạo hữu đã thành cây đại thụ trong Vườn Nhà Lam như bao nhiêu năm về trước.
Đây là lần đầu tiên, các em thiếu nhi không phải là những người lớn thu nhỏ mà có hẳn một vai trò được công nhận trong sinh hoạt Phật giáo Việt Nam thời cận đại. Đó là sự ra đời của Gia Đình Phật Hóa Phổ – Tiền thân của Gia Đình Phật Tử Việt Nam – vào năm 1930 với sự tham gia của một thế hệ đàn anh, đàn chị là những nhân vật thành danh, có đầy đủ năng lực và uy tín trong nhiều lĩnh vực, đảm trách vai trò huynh trưởng lãnh đạo, tổ chức và giáo dục.
Năm 1940, đoàn Thanh Niên Phật Học Đức Dục, được gọi theo tiếng Pháp là “Commission d’Études Bouddhiques et de Perfectionnement Moral” được thành lập tại Huế. Ngày Phật Đản 1944, một đại hội thanh niên được tổ chức tại đồi Quảng Tế, Huế, khai sinh Gia Đình Phật Hóa Phổ. Đó là tiền thân của Gia Đình Phật Tử sau nầy.
Nhờ viễn kiến với tầm nhìn xa, thấy rộng của Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám và các trí thức, văn nghệ sĩ Phật giáo tuổi trẻ hay thuộc khuynh hướng trẻ đầy nhiệt tình khai phóng nổi tiếng thời bấy giờ mà tinh thần kế thừa của thế hệ trẻ được nuôi dưỡng và phát huy trong khung cảnh cửa thiền. Những tên tuổi đã thành danh như Tráng Thông, Đinh Văn Nam, Võ Đình Cường, Phạm Hữu Bình, Lê Bối, Nguyễn Hữu Ba, Phạm Đăng Trí, Lê Ngọc Thừa, Đinh Văn Vinh, Ngô Văn Giảng, … đã cùng nhau năng nỗ đóng góp tài năng và tấm lòng cho thế hệ trẻ.
Chủ trương nổi bật nhất của công cuộc chấn hưng dành cho tuổi trẻ là khai phóng và kế thừa. Khai phóng là sự khai thông, mở trói, đối thoại, bình đẳng của mọi khuynh hướng thay đổi theo chiều hướng tích cực của trào lưu tự do dân chủ trên toàn thế giới như cải tiến, chấn hưng. Đó là một tiến trình cải cách và ứng dụng nhằm làm rõ thêm, đẹp thêm, phong phú thêm và hữu dụng thêm từ một thực tại đang bị thoái trào hay đứng yên trong tù đọng và xuống cấp trong lãng quên. Khai phóng là phá bỏ những rào cản giới hạn, nhất quán và quyết đoán mở ra những con đường tươi mới, phát huy những khả năng và tiềm năng tổng hợp để vận dụng vào nỗ lực phá bỏ hiện trạng tiêu cực và xây dựng lại theo hướng tiến tích cực. Nói tóm lại, khai phóng là tiền đề của tự do dân chủ, của cánh cửa thoáng rộng để hiểu và bước vào cửa ngõ của Văn Hóa Phật Giáo.
Tuổi trẻ Phật tử Việt Nam ngày nay trước nhu cầu chấn hưng Phật giáo
Cuối thập niên 1970 và đầu thâp niên 1980, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật ứng dụng vi tính (computer) và mạng lưới thông tin toàn cầu (internet – world wide web) đã dấy lên những bước tiến nhảy vọt trong lĩnh vực truyền thông đại chúng. Với lượng thông tin đồ sộ và không thiếu vắng về bất cứ một ngõ ngách hay vấn đề nào, hầu như hết thảy mọi cơ chế xã hội và truyền thống tâm linh, văn hóa trên toàn thế giới bị đánh động và thức dậy để tự tìm hiểu, nhìn ngắm hay đánh giá lại chính mình. Đây chính là tiền đề và động cơ chủ yếu trong các cuộc cải cách chính trị, cải tiến xã hội và chấn hưng tôn giáo.
Phật giáo Việt Nam còn ở trong một vị thế đặc biệt hơn là đã liên tiếp trải qua những chặng đường lịch sử cam go sau 1963 và 1975, nên vấn đề chấn hưng hiện đại hóa Phật giáo là một nhu cầu cấp thiết, nếu không muốn đạo Phật khỏi bị thoái trào trước những đối lực cải đạo ngày càng tăng.
Nói về tuổi trẻ Phật tử thì phải nói đến tổ chức Gia Đình Phật Tử Việt Nam mà những đoàn sinh tiền phong thời 1930, 1940 nay phần đông đã quá vãng hay đang là những cụ già lum khụm. Biến cố lịch sử 1975 là “ngọn lửa thử vàng” cho sức sống và vai trò sinh động của tuổi trẻ Phật tử trước thời cuộc. Bảy mươi năm, một đời người “thất thập cổ lai hy”, thông qua Gia Đình Phật Tử, tuổi trẻ tin theo hay có cảm tình với đạo Phật đã chứng tỏ niềm tin bất thối chuyển về sự hiện hữu và tác dụng cứu khổ của đạo Phật giữa cuộc đời thường đã “ba chìm” trên quê hương và “bảy nổi” nơi quê người.
Theo thầy Thích Đạo Tịnh thì hiện nay đã có 1250 đơn vị Gia Đình Phật Tử Việt Nam và các đoàn thể Cựu Huynh Trưởng (Hương Sen, 2014) sinh hoạt hàng tuần tại trong nước và trên khắp thế giới. Có thể nói đây là những chiếc cầu thế hệ bắt qua những bến bờ tâm hồn khác biệt về tuổi tác, hoàn cảnh và bộ phái…
Tuổi trẻ Việt Nam có khuynh hướng Phật giáo ngày nay, bên cạnh tổ chức Gia Đình Phật Tử, có rất nhiều nhóm phái và cá nhân độc lập năng nỗ tham gia những sinh hoạt Phật giáo dưới nhiều hình thức như học Phật, tu học, hành hương, từ thiện, xã hội. Nhìn qua lăng kính tích cực và tinh thần hóa giải của đạo Phật, tuổi trẻ Phật tử đang làm sáng đạo bằng cách đem đạo vào đời. Cụ thể là giới trẻ đã hiểu đạo và hành đạo với tinh thần “tâm không ngăn ngại nên không sợ hãi” của trí Bát Nhã (cao rộng) và tâm Ba La Mật Đa (hoàn mỹ) vào đời. Đó chính là tinh thần Từ Bi, Trí Tuệ cốt tủy của đạo Phật đã được thế hệ đàn anh trao truyền lại cho thế hệ đàn em làm điểm tựa cho hành động cụ thể: Bi, Trí, Dũng.
Tính từ ngày đoàn Đồng Ấu Phật Tử thành lập năm 1935 dành cho thiếu niên Phật Tử từ 12 đến 18 tuổi trong hoàn cảnh đất nước nhiều biến động không ngừng cho đến khi gia đình Phật tử Cựu Kim Sơn, đơn vị Gia Đình Phật Tử Việt Nam đầu tiên ở nước ngoài thành lập tại San Francisco năm 1976 tới nay, tuổi trẻ Phật tử đã trải nghiệm một chặng đường dài 70 năm sức mạnh của tinh thần Bi, Trí, Dũng.
Tuổi trẻ đem đạo Phật vào thế giới phương Tây
Sau năm 1975, hằng triệu người Việt mới thật sự sống ở thế giới phương Tây, nhất là Hoa Kỳ, so với trước đây họ đến đất nước nầy chỉ để thăm viếng hay liên hệ dịch vụ. Trong mớ hành lý còn sót lại sau chặng đường lao đao chìm nổi, có dành một góc khuất cho đời sống tâm linh. Dẫu đó là khuynh hướng thờ phụng Ông Bà, hành đạo theo Thiên Chúa giáo hay Phật giáo… thì vẫn là một cách riêng có sự tương tác giữa đạo và đời.
Đối với xã hội phương Tây thì việc thờ cúng ông bà là sự thể hiện một hình thái văn hóa riêng của từng cá nhân và gia đình, chẳng ăn nhập gì với cuộc sống đại chúng. Thiên Chúa giáo là một tôn giáo cộng đồng cơ bản của phương Tây. Chỉ có Phật giáo là con đường tâm linh tươi mới đến từ một phương Đông huyền bí. Đối với người Âu, Mỹ bề mặt nổi của hình thức lễ nghi, chùa viện, tăng đoàn, đạo tràng chỉ mới là lớp đèn màu trang trí ngoài da. Lý thuyết nhà Phật và phương cách thâm nhập, thực hành mới là xương thịt, là nhu cầu thực sự của xã hội phương Tây khi tiếp cận với đạo Phật.
Bởi vậy, trong gần 40 năm đạo Phật Việt Nam thâm nhập vào xã hội phương Tây, văn hóa Phật giáo đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong nếp nghĩ thiên về tâm linh của người Âu Mỹ. Đặc biệt là giới trí thức Phật tử và nhất là giới trẻ thông thạo cả hai ngôn ngữ mẹ đẻ và ngoại ngữ cũng như hòa quyện được hai nền văn hóa Đông, Tây là những đóng góp tích cực nhất cho quá trình đem đạo vào đời.
Trong mùa An cư Kiết Hạ năm nay, 2014, trong cộng đồng văn hóa Phật giáo tại Hoa Kỳ, nhiều bậc tôn túc, thiện tri thức và cư sĩ, Phật tử có một niềm vui về giới trẻ Phật tử. Trong số nhiều thành viên của các tổ chức tuổi trẻ Phật tử ở hải ngoại thành đạt ưu hạng trong học vấn và học vị, có những huynh trưởng Gia Đình Phật Tử như Bạch Xuân Khỏe (bút hiệu: Tâm Thường Định). Anh là một cựu Liên đoàn trưởng Gia Đình Phật Tử Kim Quang, thành phố Sacramento; một đạo hữu thuần thành của chùa Kim Quang và một thiền sinh học Phật ở tu viện Thiền tông Việt Nam – Diệu Nhân – California. Qua những năm năng nỗ sinh hoạt với cộng đồng Phật giáo ở nhiều chùa viện, Khỏe đã đem đạo Phật vào đời sống tri thức (learner) và trí thức (intellectual) của mình thể hiện trên nhiều mặt.
Trong lĩnh vực tri thức thuần túy, Bạch Xuân Khỏe là một người trẻ tuổi Phật tử học Phật khiêm cung và đầy thiện chí. Luận án Tiến sĩ (Doctoral Dissertation) của anh vừa trình duyệt và bảo vệ thành công vừa qua là một công trình Phật học Ứng dụng với đề tài: Tinh Thần Chánh Niệm Trong Lãnh Đạo (Mindful Leadership). Nội dung luận án nhấn mạnh tiêu đề rằng: “Một Nghiên Cứu về Hiện Tượng các Tu Sĩ Phật Giáo Việt Nam tại Mỹ đối với Vai Trò Lãnh Đạo Tinh Thần và những Đóng Góp của quý Ngài cho Xã Hội.” (A Phenomenological Study of Vietnamese Buddhist Monks in America with Respect to their Spiritual Leadership Roles and Contributions to Society.) Sau nhiều năm tham khảo, nghiên cứu ở giảng đường và thư viện kết hợp với nhiều cơ hội được tiếp cận học hỏi và tham khảo với quý Thầy, Sư Cô… mùa Hè năm 2014, Bạch Xuân Khỏe đã đỗ “ông Nghè” từ đại học Drexel University tại Sacramento.
Về phương diện trí thức đích thực thì một người có tri thức và dùng tri thức của mình để làm những điều tốt đẹp cho mình và cho người là một người trí thức.
Tân tiến sĩ Bạch Xuân Khỏe đã thể hiện được phẩm chất trí thức khi đồng thời trong ngày lễ tốt nghiệp Tiến sĩ ngành Giáo Dục (Doctor of Education), anh đã tổ chức lễ ra mắt hai tác phẩm mới, một bằng tiếng Anh và một bằng tiếng Việt:
– AWAKEN Buddhism Nature and Life
– Tưởng Niệm và Tri Ân
Đây là hai tập thơ tiếp nối những tác phẩm thơ mà anh đã xuất bản từ những năm trước đây. Điều đáng nói ở đây không phải là khía cạnh phê bình nhận định văn học mà là cái Tâm của tác giả, khi anh tự nguyện cống hiến phần lợi tức phát hành sách cho quỹ sinh hoạt của Gia Đình Phật Tử Kim Quang, Thiện Tâm và quỹ xây dựng chùa Kim Quang.
Ngoài vị thế của một Phật tử thuần thành, Khỏe cũng là người có gia đình vợ con để lo toan và làm giáo sư khoa học tại trường trung học Mira Loma để sinh sống. Thế nhưng anh vẫn “nhín” được chút thì giờ để sinh hoạt thường xuyên tại các chùa, học hành và viết lách trong bao nhiêu năm mới được như ngày nay. Bởi thế, trong bài viết về tuổi trẻ Phật tử đem Đạo vào Đời, xin đưa trường hợp Bạch Xuân Khỏe như một ví dụ điển hình để minh họa cho tinh thần tích cực hướng thượng của tuổi trẻ Phật tử hôm nay đối với dân tộc, đạo pháp, gia đình và bản thân của chính mình. Anh là một người bình thường như muôn nghìn người bình thường khác. Nhưng “bình thường tâm thị đạo” khi có tâm thành với đạo, nghĩa vụ với đời, ân tình với người thân và bằng hữu.
Trong khung cảnh Phật giáo Việt Nam đang bị vây bủa bởi ảnh hưởng tiêu cực nặng nề của tinh thần phân tranh, phân hóa ngày càng làm cho người Phật tử ưu tư suy nghĩ như hiện nay, vấn đề chấn hưng và hiện đại hóa Phật giáo đang trở thành một nhu cầu bức thiết. Đạo Phật là biển cả mênh mông chẳng nổi sóng ba đào hay khô cạn đi vì biến động của những dòng sông, con suối. Nhưng nếu cộng đồng người theo đạo Phật trong một vùng đất hay một thời kỳ nào đó gặp chướng duyên vì những sự phân tranh phi Phật pháp giữa các bộ phái và hàng giáo phẩm thì sẽ bị đánh mất đi duyên lành tu học trong kiếp làm người “bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ” hôm nay.
Dẫu sao thì hy vọng vẫn đang dấy lên khi có những tấm lòng tuổi trẻ Phật tử đượm duyên lành đem Đạo vào đời, tạo khả năng làm cho đạo Phật càng ngày càng sáng tỏ hơn trên con đường cứu khổ, mua vui. Tuy tất cả chỉ là phương tiện nhưng trong nhân đã có quả và trong phương tiện đã có mầm của cứu cánh. Ước mong thế hệ kế thừa là những mầm măng mọc đều, mọc thẳng dựng lại những bức thành tươi mới cho đạo Phật Việt Nam.