NỖI NIỀM MẤT TÊN

                                 Viết tặng Thầy, Trò… Nguyễn Hoàng

                 và những ngôi trường đã mất dạng hay mất tên.

Sau 1975, nhiều ngôi trường từ Cà Mau ra Quảng Trị đã bị mất dạng hay mất tên.  Thầy cô, bạn cũ một thời vẫn còn đó.  Nhưng trường xưa đâu rồi.  Những nhân vật lịch sử đứng tên trường như Nguyễn Hoàng, Đồng Khánh, Hàm Nghi, Gia Long, Petrus Ký… không còn mang giá trị cũ.  Buổi giao thời, những nhân vật mới có khi chưa xanh mồ lịch sử đã vội lên thay.  Tuy lịch sử sẽ có sự phán xét riêng và cuối cùng rất công bằng của nó, nhưng hiện tại, tên gọi ngôi trường cũ chẳng có mặt mày làm chứng, nên tất cả chỉ còn là tín hiệu của trái tim.

            Có nhiều câu hỏi về “chính danh” nổi lên.  Như trường hợp trung học NGUYỄN HOÀNG sẽ được trình bày sau đây là một thí dụ điển hình trong muôn một.

            Với người Việt Nam, Nguyễn Hoàng là một tên gọi vượt lên trên danh tính nhất định thường tình của một con người.  Tính cá nhân đã nhường lại cho tính đại chúng; hình ảnh nhân vật đơn lẻ đã chìm khuất sau bóng dáng của cộng đồng dân tộc.  Nguyễn Hoàng được nhắc đến như một tín hiệu đến từ dòng lịch sử dựng nước hào hùng tiến về Nam.

            Với người dân Quảng Trị, Đông Hà, Gio Linh, Cam Lộ… , kể từ khi ngôi trường trung học đầu tiên của toàn vùng Quảng Trị và phụ cận được thành lập lấy tên là Nguyễn Hoàng, người dân bình thường, giới có học thức khoa bảng cũng như thế hệ trẻ Quảng Trị có thêm niềm tự hào về một “cơ sở văn hiến” ngay trên quê hương mình.  Trước đó, học trò Quảng Trị sau khi học hết bậc tiểu học phải vào Huế học tiếp bậc trung học.  Chỉ có những gia đình tương đối giàu có mới đủ sức lo cho con vào Huế học.  Ngoài ra, đại đa số học sinh Quảng Trị ưu tú, không đủ điều kiện tài trợ “du học Huế” đành bó tay với cấp lớp tiểu học chỉ có trên quê hương mình, ấm ức nhận một “sở học” sơ đẳng vì hoàn cảnh bắt buộc !

            Bao nhiêu thế hệ học trò đi qua, Nguyễn Hoàng không còn là một danh xưng, một tên gọi bình thường hay “đại húy” của một nhân vật lịch sử đầu nguồn triều Nguyễn…, mà là một tín hiệu đến từ trái tim. Nguyễn Hoàng đối với Quảng Trị mang cùng ý nghĩa với Sorbonne ở Pháp, Cambridge ở Anh, Havard, Berkeley, Stanford ở Mỹ.  Đấy là danh vang của nhũng cơ sở giáo dục của địa phương đã đào tạo nhiều nhân tài làm mọi người tự hào và hãnh diện.

            Sau năm 1975, trường Nguyễn Hoàng bị xóa tên.  Đấy là một sự “phí phạm” dáng vẻ cao đẹp của bề dày lịch sử.  Người Âu Tây, nhất là người Mỹ “tiết kiệm” những tên gọi đã thành lịch sử, dẫu cho đấy là tên của những nhân vật một thời đã từng xông pha đánh trả, chống lại họ.

            Trên bình diện lịch sử, chúng ta thử nhận diện Nguyễn Hoàng là nhân vật có công hay có tội với thế đứng ở đâu và như thế nào trong dòng sử Việt.

Nguyễn Hoàng là con trai thứ nhì của Nguyễn Kim. Nguyễn Kim nguyên là Tả vệ Ðiện tiền Tướng quân, tước An Thanh Hầu, trông coi đạo Thanh Hóa.  Sau khi Mạc Ðăng Dung chiếm ngôi nhà Lê năm 1527, Nguyễn Kim trốn sang Ai Lao. Vua Ai Lao là Sạ Ðẩu cho ở đất Sầm Châu. Nguyễn Kim xây dựng Sầm Châu làm căn cứ địa, chiêu mộ quân sĩ, tìm cách khôi phục nhà Lê.

Vào tháng giêng năm quý tỵ (1533), Nguyễn Kim tìm được người con út của Lê Chiêu Tông là Lê Duy Ninh, lúc đó 18 tuổi, lập lên làm vua tức vua Lê Trang Tông, mở đầu cuộc trung hưng nhà Lê. Lê Trang Tông phong Nguyễn Kim làm Thượng phụ thái sư, tước Hưng Quốc Công, trông coi mọi việc trong triều về mặt đối nội cững như đối ngoại.  Trịnh Kiểm là một tướng tài đã theo Nguyễn Kim. Nguyễn Kim gả con gái là Ngọc Bảo cho Trịnh Kiểm và được vua Lê phong làm Dực Quận Công.  Sau khi Nguyễn Kim từ trần, Trịnh Kiểm lên nắm quyền thay Nguyễn Kim và được vua Lê phong làm Ðô tướng, tiết chế thủy bộ quân, kiêm tổng nội ngoại bình chương quân quốc trọng sự, rồi gia phong Thái sư, tước Lạng Quốc Công.

Nguyễn Kim  có hai con trai: con trưởng là Nguyễn Uông được phong Lãng Quận Công, con thứ là Nguyễn Hoàng được phong Ðoan Quận Công, cùng giữ binh quyền đi đánh giặc. Trịnh Kiểm nghi kỵ và sợ Nguyễn Uông cùng Nguyễn Hoàng tranh quyền với mình, quyết định ra tay trước và giết Nguyễn Uông. Nguyễn Hoàng dự đoán trước sau ông cũng bị hại, ông nhờ chị là Ngọc Bảo, vợ Trịnh Kiểm xin cho em vào trấn thủ Thuận Hoá, lại ngầm sai người đến vấn kế Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thì Trạng chỉ vào hòn non bộ, nói: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (một giải Hoành Sơn dung thân muôn đời).   Hiểu được nghĩa lý thâm sâu ở đằng sau câu nói đầy ẩn dụ, Nguyễn Hoàng xin vua Lê vào Nam và được Vua Lê thuận cho vào phương Nam trấn thủ miền địa đầu của đất nước.   Trở về Thanh Hóa, ông đem theo các thủ hạ thân tín, đồng hương và các đồng tộc vào Quảng Trị, lập Dinh ở Ái Tử sau gọi là Chính Dinh, thủ phủ của phương Nam.

            Có thể nói Quảng Trị là “Quê Hương Ân Nghĩa” với Nguyễn Hoàng; và ngược lại thì nhân vật lịch sử Nguyễn Hoàng cũng là ân tổ khai canh ra đất Quảng Trị. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư thì kể từ khi đặt chân lên dải đất phía Nam của dãi Hoành Sơn, Nguyễn Hoàng chăm lo mở mang và phát triển về mọi mặt của vùng đất nầy.  Đặc biệt là hai trấn Thuận, Quảng có một sự vươn lên về nhiều mặt mà cao nhất là pháp lý và đạo lý: “Luật lệ nghiêm tế mà khoan dung, ân huệ nhiều hơn hơn hình phạt. Bậc chăn dân xử phạt công bằng, phát huy và giáo hoá điều tốt, trấn áp kẻ hung ác. Dân trong hai trấn Thuận Quảng người người đều cảm tình, quý đức.  Phong tục được đổi từ hủ tục thành mỹ tục; chợ đò không giành dựt, nói thách; nạn trộm cướp tiệt trừ, cổng ngoài không cần đóng.  Khách thương nước ngoài đến buôn bán đông đảo, giá cả phải chăng, thuận mua vừa bán.  Quân lệnh nghiêm túc, mọi người dân đều được hưởng an vui, hạnh phúc nên ra sức làm việc, chung lo xây dựng.[1]

Nguyễn Hoàng đã xây dựng doanh phủ tại Ái Tử năm 1558 và Trà Bát năm 1570.  Đến năm 1600, Nguyễn Hoàng dời dinh qua Dinh Cát, thuộc phía Đông Ái Tử.  Người dân phục tài, mến đức nên gọi Nguyễn Hoàng là Chúa Tiên.  Chúa Tiên thường xuyên chăm lo đời sống của dân và năng nổ khuyến dân mở mang làng xóm, khai khẩn đất đai cho đến khi mất vào năm 1613.

            Giai đoạn đầu, Nguyễn Hoàng vẫn giữ danh vị Trấn Thủ, được Vua Lê phong tước Công, ông củng cố Thuận Quảng, xây thành đắp luỹ sau ra mắt công khai chống Trịnh.

            Cuộc nội chiến Nam Bắc bùng nổ vào năm 1627, 14 năm sau khi Nguyễn Hoàng mất và tiếp tục kéo dài 42 năm qua bảy trận quyết chiến đẫm máu, bất phân thắng bại.  Hai bên phải hưu chiến lấy sông Gianh làm giới hạn phân chia Nam Bắc. Mãi sau này vào đời Võ Vương, Chúa Nguyễn mới xưng Vương lập ra triều chế riêng biệt song vẫn tôn Vua Lê và vẫn giữ quốc hiệu là Đại Việt. Từ đó, miền Bắc từ Quảng Bình trở ra gọi là Bắc Hà hay xứ Đàng Ngoài, từ Thuận Quảng trở vào Nam gọi là Nam Hà hay là Xứ Đàng Trong.

            Dân Việt vẫn tự hào với lịch sử “bốn nghìn năm văn hiến”.  Lòng tự hào dân tộc không phải chỉ là một nguồn cảm tính đơn điệu, xuôi dòng.  Đấy là một sự kết hợp giữa tình cảm cao sâu của lòng yêu nước và sự trân trọng biết ơn đối với tiền nhân và tất cả sự đóng góp của những người đi trước cho tổ quốc có ngày hôm nay.  Vũ Trọng Hà, trong bài viết “Ân Oán Rạch Ròi” đã có một lối nhìn khá công bằng: Là một nước văn hiến, chúng ta phải biết ơn tất cả những ai đã đóng góp mở mang lãnh thổ và khai phá cho nền văn minh dân tộc. Tổ tiên dân Việt vẫn ghi công cho những viên quan cai trị người phưong Bắc như các nhân vật Tích Quang, Nhâm Diên.  Đó những người nước khác, nhưng đã giúp cho sự phát triển của xứ sở chúng ta.  Người Việt vẫn trang trọng gọi Sĩ Nhiếp là Nam Giao Học Tổ vì đã có công mở mang việc học hành ở đất nước này.  Nền học thuật đất Việt vẫn ghi ơn A Lịch Sơn Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) là một nhà ngôn ngữ đã góp phần sáng tạo nên hệ thống chữ quốc ngữ ngày nay.  Với một tinh thần ‘uống nước nhớ nguồn’ giàu đạo lý dân tộc như thế, việc ‘phế danh, hoán tự’ một nhân vật lịch sử lớn như Nguyễn Hoàng hoàn toàn không có cơ sở lịch sử và chính trị đứng vững để biện minh và hành xử.”[2]

            Bởi vậy, khuynh hướng mạnh mẽ gởi kiến nghị lên các cơ quan và nhân vật có thẩm quyền tại Việt Nam hiện nay để xin phục hồi và thừa nhận danh xưng Nguyễn Hoàng cho trường ốc, cơ sở, đường phố tại Quảng Trị nói riêng và cả nước nói chung là một sự thể hiện nguyện vọng hợp tình, hợp lý và hợp pháp của quần chúng.  Rất mong chính quyền Việt Nam tại địa phương và trung ương quan tâm đến những nguyện vọng chính đáng thuộc lĩnh vực văn hóa và giáo dục của người dân.

***

            Lịch sử con người và thế giới là một dòng thay đổi liên tục: Đổi đất, đổi đời và đổi tên.  Sự đổi tên công cộng thường xẩy ra khi hoàn cảnh chính trị và địa lý thay đổi.  Thông thường, có ba mô thức thay đổi danh xưng: (1) Hiện đại hóa cho thích hợp với nhu cầu và hoàn cảnh; (2) Xoá tên như một sự phủ nhận, trừng phạt; và (3) ghi tên như một sự ghi nhận, vinh danh.  Thế nhưng, trong lịch sử thay tên đổi họ xảy ra tại nhiều nơi trên thế giới xưa nay được thể hiện mạnh mẽ và quyết liệt nhất trong hai trường hợp: Vứt bỏ để trừng phạt hay nêu lên để vinh danh!  Trường hợp không có sự bó buộc của hai nhu cầu “bỏ” hay “chọn” vì bị xung đột hiển nhiên về mặt chính trị, tôn giáo hay xã hội, giới cầm quyền xã hội khôn ngoan và các nhà lãnh đạo chính trị bản lĩnh sẽ nêu cao tính lịch sử và truyền thống lâu dài lên trên nhu cầu chính trị nhất thời.  Thái độ chọn lựa và hành xử của người Mỹ về việc đổi tên trong lịch sử 300 năm lập quốc của họ là một thí dụ điển hình đáng làm cho người dân và giới lãnh đạo nói chung suy nghĩ.

      Ham thay đổi như người Mỹ, khoái bắn súng như cao bồi Texas, đại ngôn và thích dùng danh từ đao to búa lớn quảng cáo như giới chính trị và kinh doanh tài nguyên ở California thế mà vẫn hành xử rất hài hòa và mã thượng khi thắng trận.  Sau khi chiếm được đất đai từ tay người Pháp, người Mễ Tây Cơ, người Da Đỏ rồi, họ vẫn để nguyên tên những thành phố, dòng sông, rặng núi, di tích, trường học mang tên Tây, tên Mễ, tên người Da Đỏ vốn có từ muôn năm cũ.  Thậm chí, có nhiều khi đấy lại là tên của kẻ cựu thù cũng chẳng phải là điều đáng quan ngại vì lịch sử đã sang trang và phán xét công bằng.  Trường hợp tướng Robert E. Lee của Mỹ trong thời kỳ Nội Chiến (1861-65) là một thí dụ.  Lee bị nhiều sử gia phê phán là “xâm lược” miền Bắc, là kẻ ly khai.  Nhưng tên ông vẫn được giữ trên các cơ sở và con đường xứ Mỹ.  Đi từ thành phố Baton Rouge (tiếng Pháp), Del Paso, Los Angeles, San Francisco (tiếng Mễ Tây Cơ); qua những vùng Cheyennes, Apache, Chippewas (tiếng Da Đỏ) người ta sẽ thấy ngay sự mềm dẽo “giữ tên như giữ chứng tích lịch sử” của giới cầm quyền Mỹ. Chính nội dung và lịch sử làm vinh danh cho cái tên chứ không phải điều ngược lại! Bởi vậy, trả lại tên NGUYỄN HOÀNG và những tên thân yêu cho ngôi trường xưa sẽ là một việc làm rất có ý nghĩa mang đậm tính văn hóa, phát huy tinh thần giáo dục và kết hợp hài hòa về tâm lý.

            Một thế hệ đàn anh – thế hệ Chiến Tranh Việt Nam… tri thiên mệnh, cổ lai hy đủ cả – đang rủ nhau về đất và sẽ đi hết chặng đường đời không còn xa lắm.  Thế hệ đàn em, thế hệ Hậu Chiến Tranh Việt Nam, đang vươn lên lãnh đạo xã hội.  Bên cạnh của cải vật chất mà xã hội và đất nước đang có trước mắt, tuổi trẻ Việt Nam cũng tha thiết cần những sức mạnh và gia tài phi vật thể.  Đó là truyền thống lâu dài, là di sản truyền đời, là lịch sử kế thừa liên tục của nhiều thế hệ.  Mong rằng, sẽ có một ngày, thế hệ đàn anh được dự “lịch sử 100… năm của trường Nguyễn Hoàng và những mái trường xưa” đã mất tên.  Trước khi trao lại một bầu trời xanh, một vầng mây ấm và dòng lịch sử luân lưu cho thế hệ đàn em, sẽ còn có một sự đền bù trở lại cho… nỗi niềm mất tên.

Sacramento, ngày Father’s Day – 2008

Trần Kiêm Đoàn

Bài viết liên quan