PHẦN XI. DI VĂN LỄ TẾ VÀ NGHI THỨC HIẾU HỈ

 

1. Di văn tế lễ tại đình làng

VĂN CHÁNH KỊ NGÀI KHAI CANH

– Kị ngài Khai canh họ Cao ngày 14 tháng 5 AL hàng năm

– Kị ngài Khai canh họ Trần ngày 5 tháng 6 AL hàng năm

(Cúng nghi tam hiến)

Duy, tuế thứ: … Niên….

Việt Nam quốc, …., Tế chủ: …

Cẩn dĩ …

Cảm cáo vu Chánh kị nhị vị:

– Bổn Khai canh Lộc Dương Hầu Cao Quý Công, Mông Tặng Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Tôn Thần.

– Bổn Khai canh Câu Kê Kiêm Tri Bộ Tặng Cai Bộ Văn Học Hầu Trần Quý Công Mông Tặng Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Tôn Thần.

Trung tiến nhị vị

– Bổn Khai canh Thủ Hiệp Khánh Hội Tử Trần Quý Công Mông Tặng Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Tôn Thần.

– Bổn Khai canh Hát Tân Hầu Cao Quý Công Mông Tặng Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Tôn Thần.

Đồng tiến thất vị Bổn hậu Khai khẩn:

– Cao Lư Đại Lang Chi Thần.

– Trần Non Đại Lang Chi Thần.

– Trần Đăng Đại Lang Chi Thần.

– Nguyễn Văn Động Đại Lang Chi Thần.

– Phan Văn Đại Lang Chi Thần.

– Hà Văn Đại Lang Chi Thần

Đồng lai phối hưởng.

Viết cung duy.

Tiên binh liệt vị, phối ngô tiền thệ, khởi ngã hậu nhơn, thủ biểu bỉ giới, hiển thừa khai thổ chi mậu công, vĩnh dũ triệu bôi. Chi thạnh đức khả hy phúc cơ, tinh cung chiến hàn gia tặng chỉ sắc, văn tư giả đông thiên thích chỉ phục niệm, thi ân cung lâm hiệp tế tự hiền thứ biểu, đồng hương chi thiểu. Niệm ngưỡng Tôn thần, âm phò mặc trợ.

Chi gia huệ giả.

Cẩn cáo.

***

 

VĂN TẾ XUÂN

(Vào ngày 12 và 13 tháng giêng AL tại đình làng)

và  VĂN TẾ THU

(Vào ngày 11 và 12 tháng 7 AL tại đình làng)

Duy tuế thứ… Việt Nam quốc, Thừa Thiên tỉnh, Hương Trà huyện, Hương Toàn xã, Liễu Cốc Hạ thôn. Tế chủ… Cẩn dĩ…

Cảm cáo vu:

– Quan Thánh Đế Quân, Gia Tặng Dực Bảo Trung Hưng Thượng Đẳng Thần.

– Cao Cát Quảng Độ Tôn Thần, Gia Tặng Hoằng Mô Vĩ Lược Đôn Hậu Phù Hựu, Trạc Dương Trạc Vĩ Dực Bảo Trung Hưng Thượng Đẳng Thần.

– Đại Càng Quốc Gia Nam Hải Tứ Vị Thánh Nương Vương. Gia tặng Hàm Hoằng Quan Đại Chí Đức Phổ Hiển Hóa Trang Huy Dực Bảo Trung Hưng Thượng Đẳng Thần.

– Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi. Gia Tặng Hoằng Huệ Phố Tế Linh Cảm Diệu Thông Mặc Tướng Trang Huy, Dực Bảo Trung Hưng Thượng Đẳng Thần.

– Thanh Y Ngọc Nữ Nhị Vị Tôn Thần Tướng Quân, Phong Dàng Uyển Dực Bảo Trung Hưng Chi Thần.

– Kỹ Vị Khoa Tiến Sĩ, Phi Vân tướng Quân Tùng Giang Văn Trung. Gia tặng Hồng Mô Dỏng Mẫn Tước Phong Hiển Văn Chương Tiết Phương Hiến Tuấn Vọng Quan ý Dực Bảo Trung Hưng Trung Đẳng Thần.

– Bổn Thổ Thần Hoàng. Gia Tặng Bảo An Chính Trực Hựu Thiện Đôn Ngưng Dực Bảo Trung Hưng Trung Đẳng Thần.

– Đông Nam Sát Hải Lang Lai Nhị Đại Tướng Quân. Tước Phong Dõng Mẫn Lệ Dục Hoàng Nghi Trừng Trạm Dực Bảo Trung Hưng Chi Thần.

– Tứ Đầu Gia Cầm – Bổn thuộc Thuận Châu Nuôi Rí Hỏa Đức Tiên Nương. Tước Phong Ôn Hầu Quang Ứng Chương Cảm Lệ Minh Trai Thục Dực Bảo Trung Hưng Trung Đẳng Thần.

– Thổ Đức Tiên Nương. Tước Phong Hoằng Đại Hậu Khánh, Trọng Hậu Hàm Dục Trai Thục Dực Bảo Trung Hưng Chi Thần.

– Long Phi Tiên Nương. Tước Phong Dàn Uyển Dực Bảo Trung Hưng Chi Thần.

– Hồng Phi Tiên Nương. Tước Phong Dân Uyển Dực Bảo Trung Hưng Chi Thành

– Bổn Thổ Khai canh, Lộc Dương Hầu Cao Quý Công, Mông Tặng Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Tôn Thần.

– Bổn Thổ Khai canh Hát Tân Hầu Cao Quý Công, Mông Tặng Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Tôn Thần.

– Bổn Thổ Khai canh Câu Kê Kiêm Tri Bộ, Tặng Cai Bộ Văn Học Hầu Trần Quý Công Mông Tặng Dực Bảo Trung Hưng Linh Thọ Tôn Thần.

– Bổn Thổ Khai canh Thủ Hiệp Khánh Hội Tử Trần Quý Công Mông Tặng Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Tôn Thần.

– Bổn thổ hậu Khai khẩn Cao Lư Đại Lang Chi Thần, tước phong Vi Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Chi Thần.

– Bổn thổ hậu Khai khẩn Trần Non Đại Lang Chi Thần, tước phong vi Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Chi Thần.

– Bổn thổ hậu Khai khẩn Trần Đăng Đại Lang Chi Thần, tước phong vi Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Chi Thần.

– Bổn thổ hậu Khai khẩn Cao Đức Đại Lang Chi Thần, tước phong Vi Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Chi Thần.

– Bổn thổ hậu Khai khẩn Nguyễn Văn Động Đại Lang Chi Thần, tước phong Vi Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Chi Thần.

– Bổn Thổ Hậu Khai Khẩn Phan Văn Đại Lang Chi Thần, tước phong Vi Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Chi Thần.

– Bổn thổ hậu Khai khẩn Hà Văn Đại Lang Chi Thần, tước phong Vi Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Chi Thần.

– Kỵ Tiên Sư ngũ phương Thổ Công Chi Thần

Cập Thập nhị Tôn phái đồng lai phối hưởng. (kèm văn Túc yết và văn Chánh tế).

 1. Văn túc yết:

Viết cung duy, tôn thần.

Sơn hà chung tú, hải nhạc định kỳ ngung ngang vạn vọng, hiển hách anh oai, hựu đồng thôn di nghi dân nghi, dân nghi dơn, đức kỳ thành hỷ, hóa cơ vu, nãi văn nãi võ, công tắc tự chi.

Tư dơn xuân thiên tiết giới, cung tiến sĩ phỉ nghi, thượng kỳ giám tư vi, khổn tích dĩ phiền hy, văn tấn võ thăng, tế thế kỳ mỹ, gia cấp nhân túc, thọ khảo duy trì thiệt lại tôn thần.

Chi gia huệ giả.

Cẩn cáo.

2. Văn chánh tế:

Viết cung duy, Tôn thần.

Tam quan dục tú, ngũ nhạc trình tường, anh linh mạc trắc u hiển nan lương, trạch nam ban di trí chúa an dân, văn đức đảng phu vu tứ hải, phò Việt Quốc di trừ hung khử nghịch, võ công minh trước vu quần phương. Thời duy chánh nguyệt tự sự Khổng Chương. Thượng kỳ lai cách, tích dĩ khương thường đắc lộc, đắc danh, văn võ dật triều đình chi tước, viết khương viết phú quân dân mong đế đức chi quang. Thiệt Lai Tôn thần. Chi gia huệ giả. Cẩn cáo

***

 

 

VĂN TẾ THẬP LOẠI CÔ HỒN

(Túc yết)

Duy, tuế thứ… niên…

Việt Nam quốc…

Tế chủ…

Cẩn dĩ

Tư dơn, tế lễ tảo mộ xuân kỳ phụng vị bổn thôn thập nhị loại cô hồn, cô mộ hoang mộ, hữu linh vô tự, thượng từ công hầu, tể tướng, ngũ âm bá tánh chư quận; hạ chí sĩ nông công thương, Khiêm y lý bốc, giang khê hà hải, ngư tiều canh mục, chỉ dơn trục vọng, đọa lạc biên cương, bất ngộ chơn thường, trầm luân khổ thú; hà sa nam nữ lão ấu âm binh cô hồn liệt vị.

Phụng vị chiến sĩ, liệt sĩ trận vong, dân không hành thủy lục, chiến tranh bắn giết, biến cố thất thủ Kinh đô, biến cố Tết Mậu Thân, trận tuyến oan hồn tử; thiên tai bão lụt chìm thuyền, trượt té, tai nạn giao thông; say sưa tự vẫn, đâm đầu tản mạng hà sa.

Chiến tranh nạn vong, sái phách cô hồn, tự tha tiên vong gia thân bằng quyến thuộc; cô mộ hoang mộ; nam nữ lão ấu âm binh cô hồn liệt vị.

Nguyện cầu chư vong linh chính giám bổn thôn phò trì dân an vật lợi.

Chi giả huệ. Cẩn cáo!

(Phần ai):

Hỡi ôi trời đất mấy tuổi đố ai hay?

Trăm năm con tạo xoay vần đến đâu?

Đời người khó dứt nỗi sầu

Một năm mười hai tháng

Tháng có hai chín, tháng có ba mươi ngày

Người trăm năm khéo lỗi hẹn hò

Ba vạn sáu ngàn ngày nay đây mai đó

Đò tạo hóa không không có có

Vực quá cồn, cồn hóa vực

Cuộc vô thường nhào lộn sóng tang thương

Kiếp phù du bọt bọt bèo bèo

Tan rồi hiệp, hiệp rồi tan

Cơn mạc trắc xoay quanh vòng kim cổ

Nhớ các âm hồn xưa!

Giọt máu đồng bào đống xương vô chủ

Nòi Long Quân giống đúc một cha

Dòng Hồng nhị cùng chung một tổ

Người thập loại chẳng là nhiều loại

Biết tên chi, họ chi danh hiệu là chi

Khách cô hồn ngẩn ngơ lộn hồn mà già có,

trẻ có, sang hèn cũng có

Hoặc con thảo liều mình suối thảm,

quặng chín chiều ruột thắt héo hon

Hoặc tối ngày đội xác dặm trường,

ngoài ngàn dặm đem mình đi bỏ

Gan chiến sĩ gan cùng tên đạn

Bao quản đầu gươm mũi giáo

Sanh dân trời phải chịu oan trời

Mặt anh hùng mở mắt với non sông

Bao phen xung trận phất cờ

Hưởng lộc nước phải đền ơn nước

Người bể Bắc thuận buồm xuôi xuống

Nghề đánh cá phải theo đuôi cá

Buồn chưa xuôi hơi thở đã xuôi

Kẻ gánh cực lên non mà đổ

Sợ hùm sợ đến dấu chân hùm

Cực chưa đổ được đã tan tành xương thịt

Đổ nỗi đói lâm cảnh cơ cực

Kẻ sống đắp đổi nay đình mai chợ

Kiếm xin nhờ tấc đất ngọn rau

Nỗi tật nguyền bị chứng nan y

Xông pha ngày nắng đêm mưa

Thâm nhiễm những cơn trời hơi gió

Nghề chết đắm như ma rà thế cốt

Lênh đênh ba nổi bảy chìm

Nghề chết thiêu như ma đuốc ma trơi

Lấp ló cơn mờ cơn tỏ

Trận sấm sét chỉ đâu đánh đó

Sợ trời không khỏi búa Thiên Lôi

Trận bão bùng ghe cộ xa xa

thấp thoáng trôi qua miền bể khổ

Độc địa bấy những người thuốc độc

Đem hoàn thuốc mà đánh nhào số mạng

Xác người đời khác thể ngọn đèn

Oan ức kia cũng vì dây oan

Đem đoạn dây mà buộc chặt căn duyên

Mình vàng đồng cầm bằng ngọn cỏ

Hoặc một hai chưa rời vú mẹ

Bốn tao nôi tao thương tao nhớ

con ai đem bỏ chốn này,

Hoặc bảy mươi làm cha đau thân mình

Một thân già lo bảy lo ba, tuổi tác gần bên cửa lỗ

Chết lúc nhúc hồn khôn hồn dại

Kể bao nhiêu ngao ngán bấy nhiêu

Chết bơ vơ hồn lạc hồn xiêu

Hỏi siêu độ nào người tế độ

Ma không triệu dật dờ đất khách

Ai anh hùng, ai chị hiển vị vô danh đâu biết mà nhìn

Kiếp lạc loài trôi nổi phương xa

Dẫu chú chóp, dẫu cha chài,

mồ vô chủ hỏi ai cho rõ?

Thôi nó tề!

Đá trắng bia kia đất vàng cồn nọ.

Gió hiu hiu hồn ngõ quạnh hiu

Trăng lò ló hồn dường lấp ló

Ba tấc đất mồ hoang cỏ rậm

Cỏ vô tình mấy ngọn úa vàng xanh

Một góc trời khói lạnh hương tàn

Hương vô vị mấy nén mờ tắt đỏ

Say một giấc ngàn năm kêu chẳng dậy

Ngun ngút đồng không mông quạnh

Xác tha hương nấm đất dầu dầu

Nhắm đôi tròng bốn biển biết là đâu?

Mơ màng đất tổ quê cha

Hồn cố quốc phương trời vò võ

Nhìn đến cảnh cũng nên đau đớn

Khóc lóc ấy chết rồi bỏ cuộc

Làm thần đất ta, làm ma đất người

Chạnh nỗi tình rồi lại sướng vui

Mừng cho ai chết trước được mồ

là thoát khỏi trần lên cõi thọ

Anh em ta đất Bắc một khuôn, ngành Nam một ổ

Bước âm dương kẻ mất người còn

Niềm chung thủy ngày đơm tháng giỗ

Tạm lễ bạc dâng người mạng bạc gọi là chút thảo

Nước mắt dư như chi mà dám khóc người xưa

Mượn giấy vàng đốt xuống suối vàng

Xa xuôi mong gửi vài lời,

ăn cơm mới dám đâu bàn chuyện cũ

Người dẫu chết mà tinh thần chẳng chết

Chết thì linh mà linh thì hiển

Hiển thì về phò hộ hương thôn

Người dẫu còn thì tâm sự hãy còn

Còn càng tưởng, nhớ tưởng càng trông

Trông càng muốn xây vần khí số

Hỡi ơi! Thương thay xin hưởng

Chư vong linh chứng giám

bổn thôn phò trì dân an vật lợi.

Chi gia huệ giả. Cẩn cáo!

 

***

 

2. Nghi thức việc hiếu hỉ tại làng

 

LỄ HỢP HÔN VÀ TANG TẾ Ở LÀNG

 

Trần Duyên, sinh năm 1942Sinh ra, lớn lên và hiện sống tại làng Liễu Cốc Hạ
Trần Duyên, sinh năm 1942 Sinh ra, lớn lên và hiện sống tại làng Liễu Cốc Hạ

BBS: Người làng biết đến ông Trần Duyên là một ông Cai giang, một ông Chủ hôn có nhiều kinh nghiệm. Hưởng ứng việc viết Lược sử làng, ông gởi đến BBS bài viết của mình nhằm bảo tồn phong tục, tập quán quê hương. BBS mong rằng bài viết này sẽ giúp bà con trong làng có tài liệu tham khảo mỗi khi có việc hiếu hỉ.

  1 – Lễ Hợp Hôn

Theo tục truyền ngày xưa để lại, việc hợp hôn gồm có sáu lễ (gồm bốn lễ chính và hai lễ phụ).

Bốn lễ chính gồm:

Lễ dạm hỏi (bỏ trầu)

Lễ đính hôn (đám hỏi)

Lễ thành hôn (đám cưới – nếu nhà gái thì lễ vu quy)

Lễ lại mặt

Hai lễ phụ là:

Lễ chịu lời

Lễ giao ngôn

Lễ nghi là vậy. Tuy nhiên, dân gian có câu “Ai chê đám cưới, ai cười đám ma” hoặc “Giàu làm kép, hẹp làm đơn”, cho nên lễ thành hôn có nhiều thứ hạng.

Nhà giàu có thì người bưng lễ bận áo dấu, đầu đội nón dấu, cau lồng rượu ché, heo quay, xôi vò, lễ nghi đình đám.

Nhà bình thường cũng có lộng, lồng đèn. Lễ vật gồm có sáu quả hoặc chín quả tính theo trực sinh, lão… mà địa phương ta đang áp dụng.

Lễ vật thông thường gồm có:

Một khay cau trầu rượu, một quả cau trầu, một quả nem chả, một quả bánh phu thê, một quả rượu trà, một quả trái cây, hai quả bánh hộp, một quả heo quay, một quả xôi vò.

Và ba lễ vật không tính trong các quả hộp là: Một khay cau trầu rượu, một cặp đèn long phụng, một khay hoa quả, vàng bạc, hương trầm.

Người đi lễ và bưng lễ vật, xe đưa đón cũng tính theo trực. Có vị chủ hôn dẫn dắt và cúng lễ tơ hồng.

Khi đến nhà gái làm lễ vu quy thì nhà trai cử đại diện vào trình giờ. Nhà gái nhận lời ăn cau trầu, uống rượu và mời nhà trai vào hành lễ.

Khi vào hành lễ, nếu nhà gái có đặt bàn giá thú (theo hướng đại lợi, hướng mặt trời mọc) thì nhà trai trình bày lễ vật xong, ông chủ hôn đến trước bàn giá thú, chẻ trái cau làm đôi, chẻ ngọn trầu làm đôi, thắp đèn, thắp hương vái lạy cầu nguyện gia tiên nhà gái. Bài khấn nguyện như sau :

Tuế thứ……. niên… tháng… ngày….

Việt Nam quốc….. tỉnh …….. huyện ….. xã…….. làng. Tại gia đường…. có hai gia đình gia đình –  Gia đình ông bà….  địa chỉ:….

Có nam tử tên là….

Gia đình……

Có nữ tử tên là….

Cung hành giá thú lễ

Chủ hôn là….

Thiết trí trai bàn: Kim ngân, bông ba hoa quả, hương đăng phù tửu…

Nhất tâm phụng thỉnh:

Tơ Hồng Nguyệt Lão Thiên Tiên.

Nhì vị Tiên Thiên

Giáng hạ chứng giám, phò từ cho nam tên là….  nữ tử tên là….  đạt thành gia thất, trăm năm hạnh phúc.

Bái cầu:

Trước án tiền Tơ Hồng Nguyệt Lão Thiên Tiên; Trước linh toạ ngũ tự gia thần, chư tôn linh – Trước linh vị, liệt vị gia tiên, chư chân linh, xin kính cẩn khẩn cầu:

Phúc tổ Di Lai – sinh trai có vợ – sinh gái có chồng – lễ mọn kính dâng – duyên lành gặp gỡ – giai lão trăm năm – vững bền hai họ – nghi thất nghi gia – có con có của – cầm sắc giao hoà – trong nhờ phúc tổ.

Cẩn cáo.

Đến đây, tứ thân phụ mẫu vái lạy cầu nguyện ơn trên cho hai con nên gia, nên thất, duyên lành ý đẹp.

Cô dâu chú rể vái lạy cầu xin Tơ Hồng Nguyệt Lão được trăm năm hạnh phúc.

Trong lễ này có ba tuần rượu. Ông chủ hôn niệm hương một tuần – Tứ thân phụ mẫu cầu nguyện một tuần – cô dâu chú rể cầu xin một tuần.

Ông chủ hôn vái tạ, đốt vàng bạc, tắt đèn và mời trầu rượu cho tứ thân phụ mẫu. Lễ giá thú như vậy hoàn tất.

Lễ yết cáo gia tiên

  1. Đại diện nhà gái cáo yết gia tiên.
  2. Tứ thân phụ mẫu vái lạy, cầu xin tiên tổ cho hai con thành gia, thành thất, duyên lành ý đẹp, sớm có con, có của trăm năm hạnh phúc.
  3. Cô dâu chú rể vái lạy xin ra mắt tổ tiên ông bà.
  4. Đại diện nhà gái vái tạ.
  5. Chú rể trao hoa cho cô dâu.
  6. Nhà trai trao quà cưới cho cô dâu
  7. Nhà gái, bà con nội ngoại trao quà cho cô dâu chú rể.
  8. Nhà trai cảm tạ họ nhà gái đã sinh thành dưỡng dục cô dâu…
  9. Cô dâu chú rể mời trầu rượu cho tứ thân phụ mẫu, tỏ lòng báo đáp công ơn .

Lễ vu quy như vậy là xong.

Đúng giờ, nhà trai có khay cau trầu rượu xin nhà gái được rước dâu.

Cô dâu chú rể về nhà trai vái lạy gia tiên. Ông chủ hôn thắp hai cây đèn. Cô dâu chú rể nhập phòng là hoàn thành Lễ hợp hôn!

***

2. Tang tế

Khi có người thân trong gia đình qua đời thì gia đình trình báo với bác Trưởng họ, hoặc nhờ bà con nội ngoại, bà con xóm làng hay bạn bè quen thân để tới trợ giúp gia đình, nhờ người am hiểu về tang tế bố trí công việc. Những công việc ấy thường được thực hiện tuần tự như sau:

– Mời thầy cúng hoặc thầy tu cho chương trình tang lễ

– Thuê người dựng rạp, bàn ghế

– Mua quan tài (hòm) và các vật dụng nhập liệm

– Mua hoa quả thiết trí bàn Phật, bàn linh

– Khai tử với chính quyền địa phương

Việc mai táng người chết phải hoàn thành không quá 5 ngày. Nếu trường hợp đặc biệt cần phải để lâu hơn nữa thì phải xin phép chính quyền.

Các nghi lễ trong lễ tang là:

– Lễ nhập liệm

– Lễ khai kinh, phục hồn, thành phục

– Lễ cúng trà, cúng cơm hàng ngày

– Lễ cáo Tổ, lễ cúng ngọ triêu điện

– Lễ cúng thí thực

– Lễ tịch điện

– Lễ qui y linh, lễ cầu siêu

– Lễ cáo đại lộ

– Lễ khiển điện, triệt linh sàng, di quan

– Lễ an linh, tạ Phật hoàn kinh

Khi lễ thành phục xong là lễ viếng. Làng xóm họ hàng bà con nội ngoại, thông gia, bạn bè thân thiết đến dâng hương. Những người đến viếng sẽ có ban tiếp đón lễ vật, ghi tên và mời gọi vào hành lễ. Nếu là làng, họ, cơ quan đơn vị cấp lớn thì bác chấp lệnh đánh ba hồi và ba đùi chiêng. Nếu là thông gia có mâm cau trầu, liễn, đối, lẵng hoa, cu- roon thì bác chấp lệnh, đánh một hồi và ba đùi chiêng. Cá nhân thì ba đùi chiêng.

Lễ di quan

Trước đây, làng có họ hiếu do ông Giàn đồ tể điều hành. Nhưng nay qua thời gian thay đổi, việc di quan do ông Trưởng ban điều hành của làng. Làng đông dân nên chia làm hai tổ, tổ 1 và tổ 2.

Làng có xe đưa quan, có giàn đồ năm xà ban, có bộ da vàng che quan, Âm công gánh giàn đồ có 48 người, có bác Cai giang (tức áp quan) và bốn bác cai roi (bác Thập).

Khi lễ triệt linh sàng xong, là bác chấp lệnh đánh ba hồi và ba đùi chiêng là bác Cai giang và bốn bác Thập cùng đội Âm công cầm đèn đi Lăng xà vào viếng quan tài rồi ra ngoài đi quanh Lăng xà vào tứ trụ để vái lạy hương linh. Cúng xong, bác Cai giang phất đèn đi hàng hai vào bế quan. Bế quan ra đến giàn đồ nai nịt xong là bố trí lên anh em Âm công ngồi vào vị trí giàn đồ chờ lệnh.

Sau ba hồi ba đùi lệnh kiểng và ba hồi ba đùi lệnh chiêng, bác Cai giang có lời thưa:

Vì tình làng, nghĩa xóm, vì tình nghĩa bạn bè thân thương đã đến tiễn đưa linh cữu, xin cầu nguyện cho hương linh vãng sanh cực lạc. Cầu xin  hương linh nhẹ nhàng cho anh em hoàn thành nhiệm vụ. Và xin anh em Âm công vì nghĩa tử là nghĩa tận, ai rồi cũng qua cầu sinh tử, việc hiếu sự xin anh em cố gắng cho.

Ông Cai giang đánh ba hồi và ba đùi trắc lệnh rồi hô:

Bơi hai đốc! (anh em Âm công dạ rập ràng). Tiếp tục ông Cai giang truyền lệnh:

Hương linh nằm giữa thuyền long.

Bà con làng xóm người trong kẻ ngoài.

Bốn góc nhờ bốn ông cai

Luôn luôn chú ý đến quan tài

Xin hai dặn Âm công cố gắng đôi vai

Để đưa linh cữu cụ Hai ra đồng

Bây giờ đòn ngoài cho đến đòn trong

Xin nghe cho lọt tiếng trắc

Bồng cho lớp đai mà đai giả

Để kiểm tra dây nài.

Khi anh em kiểm soát vài dây nài xong, ông Cai giang hô tiếp:

– Hiện anh em đang chống gối ôm nài lưng xây ra ngoài, mắt liếc vào trong xin nghe cho lọt tiếng trắc là bồng cho một lớp đai, rồi eo, rồi vai… xin đi lần tới.

Dẫn đầu đoàn đám tang là bác cầm đuốc, lần lượt nối tiếp là bác cầm triệu, anh em cầm hoa, liễn, đối… và bác Chấp lệnh, quý thầy, xe tang, gia đình tang quyến. bà con nội ngoại, anh em bạn bè tiễn đưa….

Lễ tế độ (đạo) trung

Khi xe tang đến nơi vùng cồn mà gia đình đã chọn sẵn thì dừng lại để cúng lễ Tế Độ trung và cũng để anh em Âm công nghỉ chân. Xong lễ tiếp tục di quan đến nơi huyệt mộ cho đúng giờ hạ quan.

***

 

 

 

 

 

Bài viết liên quan