VÀI NÉT VỀ BẢN SẮC VĂN HÓA HUẾ

Khái niệm về Bản Sắc Văn Hóa

Huế đẹp, Huế thơ
Huế mơ, Huế mộng
Huế… tộng bộng hai đầu!

Bên cạnh một sự diễn đạt và mô tả “nghiêm chỉnh” cái dáng vẻ thơ mộng đáng yêu của Huế, bỗng có một một ý nghĩ mang đầy hài tính “ngẵng” (nghịch ngợm) hay “ba lơn” (đùa cợt) rất… kiểu Huế để nhận xét về Huế.

Thế nhưng đứng về mặt nhân văn thuần túy thì sự diễn đạt cái đẹp, cái thơ… chưa nói được một cá tính độc đáo nào về Huế cả. Bởi vì không riêng Huế mà Hà Nội, Sài Gòn, Nha Trang, Đà Lạt, Cần Thơ và nhiều nơi trên đất nước Việt Nam, thậm chí những thành phố khác khắp nơi trên thế giới cũng có thể có những nét chung chung “đẹp và thơ” như thế chứ chẳng riêng gì Huế. Vậy mà bằng một cách nói bình dân rất họat kê, dấy lên từ ý thức hay tiềm thức, cái… “tộng bộng hai đầu” lại nói lên được một trong những nét độc đáo của bản sắc văn hóa Huế. “Tộng bộng hai đầu” vì (1) nếp sống chắt chiu nhưng cầu kỳ và trang nhã trong cái nghèo của Huế; (2) hiếu khách và hiếu học: Huế mở rộng tấm lòng, mở rộng trí óc, mở rộng cửa nhà, phường xóm để đón bạn bè, đón sĩ tử, đón tư tưởng Đông Tây Từ Bắc vào Nam, từ Nam ra Bắc; (3) Huế rất khép kín trong điệu sống (sợ khen chê, sợ vạch áo cho người xem lưng) nhưng lại rất nhạy cảm và nhạy bén đối diện, chắt lọc mà lại dễ dàng thỏa hiệp với cái mới, cái lạ, cái khác biệt trong đời sống.

Là một dải đất hẹp như cái vòng eo nằm giữa hai miền đất nước, nếu Huế không “tộng bộng hai đầu” để đón nhận và giữ được thế quân bình giữa nhiều lực kéo từ khác nhau đến đối kháng, Huế hôm nay có thoát khỏi số phận của Châu Ô, châu Rí một thời của Chiêm Quốc hay không?!

Khi nói về văn hóa, những học giả cổ điển sính chữ thích tầm nguyên hay dành một khái niềm quá bao quát và lớn lao cho hình tượng văn hóa như: Văn hóa Tiền sử, văn hóa Trung cổ, văn hóa Ấn Hà, văn hóa Đông Sơn… Nhưng càng về sau nầy, khi mức độ chuyên môn hóa càng cao thì khái niệm văn hóa càng được giới hạn trong những phạm vi cụ thể và rõ ràng hơn. Một lọat các nhà nghiên cứu văn hóa thời danh cuối thế kỷ 20 đã xem văn hóa như là “Lối nghĩ, lối sống của một nhóm người trong một khung cảnh xã hội nào đó.” Phải chăng, sự tinh tế và phong phú của tri thức nhân lọai đã giúp người ta không cảm thấy hụt hẫng khi nói đến những mảng văn hóa độc đáo mà một thế hệ đã quen với “định đề văn hóa” không thể nào chấp nhận được. Ví dụ như văn hóa Nghị trường, văn hóa Chính khách, Văn hóa Hippy, văn hoá Jazz, văn hóa Rap, văn hóa Cơm bụi, văn hoá Tây ba-lô… và vô số khái niệm văn hóa trong nhiều khung cảnh và lĩnh vực chuyên biệt.

Trong một bối cảnh nhân văn mang tính toàn cầu và quy ước như thế, sự hiện diện của một hình thái văn hóa địa phương như văn hóa Huế, văn hóa Sài Gòn, văn hóa Hà Nội trong bối cảnh văn hóa Việt Nam, văn hoá Á Châu… sẽ không còn là một vấn đề “khả hữu, có chăng” nữa mà là một thực tại tất yếu.

Như thế, vấn đề còn lại là xác định, là nhận diện cho được những tính chất riêng biệt và độc đáo của mỗi cụm, mỗi nhóm, mỗi vùng và mỗi miền văn hóa.

Đôi nét điển hình trong Bản sắc văn hóa Huế.

Để xác định đôi nét tiêu về bản sắc (identity1) của văn hóa Huế, trước hết thử đặt một cái nhìn khái quát về Huế2. Huế là ai, Huế ở đâu, Huế có cái gì đáng nói?

Vào thế kỷ XIII, sông Thạch Hãn (Quảng Trị) từ thượng nguồn đổ ra Cửa Việt là biên giới thiên nhiên của hai nước Đại Việt và Chiêm Thành. Có nhiều giai đoạn chiến tranh và hòa bình xảy ra giữa hai nước Việt và Chiêm. Lực lượng Chiêm Thành lúc bấy giờ do vua Chiêm là Chế Mân thống lĩnh. Chế Mân tức Thái tử Bổ Đích (Harijit) là con của quốc vương Indravarman. Vì vua cha đã quá già yếu , Chế Mân lên kế vị. Mối giao hảo giữa hai nước Việt – Chiêm được cải thiện vì lực lượng quân sự của cả hai nước đã mấy lần phối hợp chống họa xâm lăng từ phía Bắc của quân Nguyên tràn xuống xâm lăng.

Năm1301, vua Trần Nhân Tôn nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tôn và trong lần viếng thăm Chiêm Thành, thái thượng hoàng Trần Nhân Tôn đã gặp Chế Mân. Vua Trần Nhân Tôn, rất có thể vì cảm phục sự anh tuấn của chế Mân trong cuộc chiến chống quân Nguyên, đã hứa gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân.

Năm 1306, Chế Mân sai sứ giả mang châu báu, vàng bạc ra kinh đô Đại Việt xin cưới công chúa Huyền Trân nhưng vua Trần Anh Tông cùng triều thần do dự không chịu gả. Sau đó Chế Mân lại xin dâng đất hai châu Ô và châu Ríù làm sính lễ nên nhà Trần lúc bấy giờ mới chấp thuận lời cầu hôn. Mùa Hè năm 1306, vua Anh Tôn tổ chức một phái đoàn đưa tiễn công chúa Huyền Trân về Chiêm Quốc. Đến cửa biển Ô Long, tức là cửa biển Thuận An bây giờ, vua cho đổi tên là Tư Dung (tức là dung mạo đẹp đẽ, đoan trang của người con gái) . Từ thời điểm này Huế chính thức nhập vào giang sơn Việt Nam. Nhưng cuộc tình Việt Chiêm của Chế Mân và Huyền Trân không kéo dài được lâu. Chỉ một năm sau, 1307, Chế Mân chết. Theo nghi thức cổ truyền của Chiêm Thành thì hoàng hậu cũng phải lên dàn hỏa để thiêu sống theo vua. Vua Trần Anh Tôn đã cho Trần Khát Chân (Khắc Chung), tương truyền là người tình cũ của công chúa Huyền Trân , đem vệ binh vào kinh đô Chiêm Thành, dùng mưu kế cứu được công chúa đưa về Bắc. Sau đó Huyền Trân đã đi tu giữa tuổi thanh xuân cho hết cả quảng đời còn lại

Năm 1558 giữa lúc cuộc chiến tranh Lê – Mạc xảy ra, triều đình nhà Lê lâm vào cảnh thoái trào: Chúa chiếm quyền vua. Sau khi Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm giết chết, người em là Nguyễn Hoàng xin vào trấn thủ đất Thuận Hóa để giữ mình và nuôi chí lớn. Nguyễn Hoàng mở mang khai khẩn xứ Đàng Trong thành một giang sơn riêng. Các chúa Nguyễn thay nhau trị vì xứ Đàng Trong từ đó cho đến khi Nguyễn Aùnh thắng cuộc binh đao tranh hùng với Tây Sơn ròng rã 20 năm và lên làm vua lấy hiệu là Gia Long (1802-1820).

Hai châu Ô và Lý còn được mang tên là Thuận châu và Hóa châu, từ đó có tên là Thuận Hóa về sau cũng vốn là đất đai tranh chấp giữa hai dân tộc Chiêm Việt do những chạm trán và thù hận giữa hai bên. Nguyễn Hoàng đã biến đất từ phía nam Đèo Ngang trở vào, mà căn cứ địa là Huế, thành một nơi “vạn đại dung thân”. Lúc đầu các chúa Nguyễn đóng đô ở Ái Tử (1558- 1570), sau dời sang ở Trà Bát (1570- 1600), rồi Dinh Cát (1600- 1687), Phước yên (1626- 1636). Từ năm 1636 đến 1687, phủ chúa Nguyễn đặt ở Kim Long rồi sau đó dời về Phú Xuân. Từ năm 1653, giáo sĩ Đắc-Lộ đã dùng từ “Kẻ Huế” để nói về nơi đặt thủ phủ của các chúa Nguyễn. Tất cả công trình xây dựng Đàng Trong của các chúa Nguyễn khởi đi từ Huế.

Tiền thân của Huế là Thuận Hóa – Phú Xuân. “Huế” là cách đọc trại ra từ chữ “Hóa”. Tuy thành Phú Xuân được xây dựng từ khi chúa Nguyễn Phúc Khoát vừa mới lên nối ngôi năm 1738, nhưng hơn một nửa thế kỷ lọan lạc, thay ngôi đổi chủ liên miên, văn hóa chưa có điều kiện định hình.

Năm 1802 Nguyễn Ánh chiến thắng Tây Sơn lên làm vua lấy hiệu là Gia Long, chọn Huế làm kinh đô. Giai đọan nầy chính là thời kỳ Huế được xây dựng thành một kinh đô bề thế với nhiều công trình kiến trúc tráng lệ, mang tính dân tộc và nghệ thuật cao. Gần 150 năm trị vì với 13 đời vua của triều Nguyễn, Huế trở thành đất “thần kinh văn vật” trong khung cảnh thiên nhiên sông núi hữu tình.

Từ phía Tây bán cầu, sau một ngày của múi giờ sáng tối, nhìn về Việt Nam, ngó về Huế có thấy Huế rõ hơn khi còn ở trong Huế hay không?

Về mặt di dân và ngụ cư, Huế cũng có nét hao hao giống Mỹ. Người Huế và người Mỹ đều không phải là người bản địa mà là dân di cư và nhập cư. Người Huế từ Đàng Ngoài theo chân chúa Nguyễn vào Nam, đẩy người Chiêm Thành ra khỏi đất gốc của ho.ï Cũng vậy, người da trắng từ châu Aâu vượt đại dương vào châu Mỹ, đẩy người da đỏ vào rừng sâu. Quá trình khai phá đất mới cũng đồng thời với quá trình xây dựng một bản sắc văn hóa mới. Cái khác giữa hai bối cảnh của Ta và Người là đất cũ Chiêm Thành là dãi đất hẹp, núi ăn ra tận biển trong cảnh thiên nhiên non xanh nước biếc; trong khi châu Mỹ là vùng đất vạm vỡ bạt ngàn. Người Chàm thiên về ca múa với những điệu Hời buồn não nuột, lặng lẽ rút lui dần trước sự xâm lấn của lớp người mới đến; trong lúc người Da Đỏ thiên về chiến đấu với tiếng tù và xung trận của tù trưởng, chỉ rút lui khi thua trận trên chiến trường đã ngập tràn máu lệ. Chính bối cảnh lịch sử và xã hội thời “dựng nước” đóng vai trò quyết định cho bản sắc văn hóa về sau nầy.

Khác với bản năng xông xáo với tinh thần quyết đấu của người Mỹ ứng phó quyết liệt với người da đỏ tại châu Mỹ, lớp người Huế tiền phong đối diện với một thế giới Chiêm Thành huyền bí. Cái thua và cái thắng; cái được và cái mất không tính theo những giá trị rạch ròi quy ước đầy lý tính. Do đó, từ bản chất, văn hoá Huế tiềm tàng giá trị phi vật thể. Người Huế mang nét trầm lặng, u buồn và hoài cổ. Nét buồn của Huế dịu và trầm như thoáng hương xưa khơi lên từ lòng đất chôn dấu những hòai niệm và toát ra từ thiên nhiên kỳ tú trong sương khói. Cái buồn trong cung cách sống cũng như trong cảm nhận nghệ thuật của Huế “buồn” nhưng không “trệ”, nghĩa là nét phù trầm của tâm hồn không đồng nghĩa với sự đau thương và tuyệt vọng của người theo cỗ xe tang như một số tác giả đã nhìn Huế.

Trong nghệ thuật và cảm quan thì Huế vương mang nét lắng đọng và u trầm như vậy, nhưng trong đời thường thì người Huế lại rất xông xáo và thực tế. Nhìn vào bức tranh hiện thực của những người Huế đang ở quê nhà hay lập nghiệp xa quê, nhất là người Huế di tản ra nước ngoài sau năm 1975, thì sẽ thấy rõ ràng tinh thần vừa lạc quan, hài hước (theo cái ngẵng và cái ba lơn truyền đời của Huế), vừa chịu thương chịu khó “ham việc tiếc công” của con nhà nghèo cố vươn lên hơn là hình ảnh: “Người Huế buồn trong lúc thế gian vui…” quá ảm đạm và bi quan như bác sĩ Lê Văn Lân đã diễn dịch theo lý tính thuần lý (Physical setting interpretation) của y học về một trạng thái tâm lý đau thương vô hạn kỳ vì phải gánh chịu tai trời ách nước triền miên của người xứ Huế!

Lịch sử hình thành văn hóa Huế đi song song với lịch sử “Chín Chúa mười ba Vua” kéo dài từ 1558 đến 1945 của Nguyễn Triều. Suốt 387 năm để hình thành một nền văn hóa cung đình Triều Nguyễn, kết hợp với văn hóa dân gian mà tạo thành văn hóa Huế. Bản sắc của nền văn hóa Huế mang đậm nét văn hóa cung đình và văn hóa đại chúng bình dân Việt Nam. Bởi thế, trong cái xuề xòa “tộng bộng hai đầu” của Huế lại ẩn chứa vẻ kín đáo thâm cung và nét trang đài và quý phái của cung đình. Bản chất cung đình và lề thói bình dân không bao giờ hoà hợp và trộn lẫn nhau nên Huế thiếu một sự “trung bình cộng” như trắng trộn đỏ thành mầu hồng. Chính đây là nguồn gốc sâu xa của một trạng thái tâm lý mâu thuẫn đi tìm cái không bao giờ có của Huế. Tâm lý Huế là nghèo mà sang, vui mà vẫn man mác buồn, sống hiện tại mà vẫn thiết tha về quá khứ nên hiện tượng “Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên” rất phổ biến trong tâm tình người Huế.

Một danh xưng đề nghị sửa lại : Danh xưng “THỪA THIÊN HUẾ”

Về phương diện địa dư và hành chánh, Huế là thị xã của tỉnh Thừa Thiên. Thừa Thiên có 8 quận (hay huyện): Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang, Hương Thủy, Phú Lộc, A Lưới, Nam Đông. Có Thể chia Thừa Thiên ra làm 3 vùng văn hóa chính: Văn hóa nông nghiệp, văn hóa ngư nghiệp và văn hóa nương rẫy. Từ cách sống, cách ăn, cách mặc, cách nói, cách vui chơi hội hè đình đám thì cả ba vùng văn hóa Thừa Thiên có rất nhiều điểm chung, điển hình cho tính đại chúng của nền văn hoá làng xã Việt Nam.

Nếu chỉ đứng về mặt địa lý và cấu trúc thuần túy thì sự xác định biên giới của Huế phải đi từ nhỏ đến lớn: Đại Nội là giang sơn riêng của vua và triều đình gồm Hoàng thành và Tử cấm thành. Thành Nội là phần đất nằm trong phạm vi Kinh thành Huế bốn mặt thành giới hạn bởi cửa Đông Ba, cửa Chánh Tây, cửa Thượng Tứ, cửa Ngăn, cửa Hữu, cửa An Hoà… và cộng thêm dãi đất hẹp bao quanh Thành Nội mỗi bề từ 4 đến 7 cây số thường được xem là Thành Phố Huế. Từ cửa Ngọ Môn được coi như là trung tâm thành phố Huế, chỉ cần đi bộ khoảng một giờ đồng hồ tối đa là có thể đến một trong các “cột mốc” cuối cùng của Thành Phố Huế như: An Hoà, Bao Vinh, Bãi Dâu, Đập Đá, An Cựu, An Lăng, Long Thọ, Văn Thánh. Qua khỏi lằn ranh nầy là địa bàn thuộc về làng xã, quận huyện Thừa Thiên.

Người ở trong nội vi của thành Phố Huế thường tự coi mình là người Huế, còn người ở các vùng ngoài Huế là dân ruộng, dân biển, dân phường. Hay thậm chí là “dân nhà quê”! Ngược lại thì người làng quanh Huế cũng tự coi mình là “dân Quê” để phân biệt với người ở Huế là “dân Phố”, dân Dinh”!

Với người ngoài Huế thì Thừa Thiên hay Huế đều là Huế. Trong lĩnh vực địa lý và chính trị nội bộ địa phương thì có Thừa Thiên và Huế nhưng trong lĩnh vực nhân văn và nhân chủng thì không có sự phân biệt giữa Thừa Thiên và Huế. Trên bản đồ chỉ thấy Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Biên giới nhân văn của Huế được xác định rằng: Đông giáp Biển Đông, Tây giáp Trường Sơn, Nam giáp sông Mỹ Chánh, Bắc giáp đèo Hải Vân. Không có người nào là người Thừa Thiên và cũng không có văn hóa nào là văn hóa Thừa Thiên mà chỉ có NGƯỜI HUẾ và VĂN HOÁ HUẾ. Người Huế ở thành phố hay ở các quận huyện đều tự nhận diện mình là NGƯỜI HUẾ – Có thể thêm chi tiết phụ là người Huế ở vùng nào – chứ không một người Huế nào nói với một người xứ khác rằng: “Tôi là người Thừa Thiên”. Cũng thế, khi ra nước ngoài, người Việt tự nhận diện mình là “người Việt Nam” chứ không ai đi nói với một người Mỹ, người Nga rằng: “Tôi là người làng Hương Cần”; hay “Tôi là người Huế” cả!

Về mặt tâm lý, sự phân biệt Thừa Thiên và Huế trong quá khứ, vô hình chung đồng nghĩa với sự phân biệt Nhà Quê và Thành Phố. Sự phân biệt nầy là một cách nói khác của khái niệm “quê mùa lạc hậu” đối với “phố phường văn minh”!

Do hoàn cảnh lịch sử có sự xung đột gay gắt và do nhu cầu chiến thuật và chiến lược, sự phân ranh Thừa Thiên và Huế được thiết lập vì lý do hành chánh, quân sự nội tại của nó. Cũng như vì đời sống kinh tế khó khăn, mạng lưới giáo dục hạn chế, môi trường truyền thông lạc hậu, ngăn cách nên sự phân biệt QUÊ và TỈNH đã tồn tại trong suốt một chiều dài – khá dài – của lịch sử.

Tuy nhiên, trên thực tế thì xương sống và linh hồn của “văn minh” và văn hóa Huế lại nằm ở địa bàn Thừa Thiên. Sông Hương, con sông như mái tóc mây của Huế, từ nguồn đến biển quấn quít với Thừa Thiên, chỉ có một đọan rất ngắn chảy qua lòng thành phố Huế. Sông Bồ, sông Truồi, núi Kim Phụng, núi Thiên Thai, núi Truồi, đèo Hải Vân, biển Cảnh Dương, cửa Tư Dung, phá Tam Giang… là cảnh quang thiên nhiên làm nên xứ Huế cũng đều ở địa bàn Thừa Thiên. Cho đến lăng tẩm, đền đài, chùa chiền làm nền móng nhân văn và làm phong phú cho vẻ đẹp của Huế cũng thuộc về Thừa Thiên. Những món ăn tạo nên phong vị độc đáo nhất của Huế, những nghề nghiệp tạo nên phong thái kinh tế riêng bịêt của Huế cũng ở các làng quanh Huế. Và cốt lõi là con người xứ Huế, ngoại trừ dòng dõi vua chúa nhà Nguyễn Phúc tự nhận chánh quán của mình là “Gia Miêu, Ngoại Trang, Thanh Hoá”còn hầu như tất cả dân cư trong thành phố Huế đều có chánh quán của mình là các làng xã Thừa Thiên.

Nói tóm lại là sẽ không có một Huế thật sự là xứ Huế bây giờ nếu Huế chỉ là thị xã hành chánh Huế đứng độc lập hay tách rời Huế với Thừa Thiên. Cho nên, cái danh xưng “kép” THỪA THIÊN HUẾ chẳng những không nói lên được một hình ảnh của toàn cảnh xứ Huế đúng nghĩa, mà còn biểu tỏ một khuynh hướng gọi tên kệch cỡm, lỗi thời.

Với đà tiến hóa chung về mọi măt của đời sống ngày nay, người Huế nói chung khi đến định cư tại các nước Phương Tây hay ngay tại những địa phương bên ngoài Thừa Thiên Huế thì cái biên giới “nhà quê” và “thành phố” hoàn toàn không có lý do tồn tại. Ba tiêu chuẩn chính thường được dùng để phân biệt giữa “quê” và “tỉnh” là: Kinh tế, học vấn và lối sống. Các tiêu chí phân định đó đã bị thực tế vô hiệu hóa vì ra khỏi Huế, đặc biệt là ở Mỹ, những người Huế xuất thân từ các vùng địa lý Thừa Thiên không còn ở thế yếu kém về kinh tế, thế thấp hơn về học vấn và thế lam lũ hơn về lối sống so với người Huế xuất thân từ thành phố Huế như thời kỳ xưa cũ trên quê hương.

Do đó, trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, tâm lý, giáo dục và sinh hoạt hội hè, hội đoàn và thân hữu, danh xưng nối kết “Thừa Thiên Huế” có thể tạo ra một tác dụng ngược lại, hàm chứa mặc cảm chia rẽ về cả thể và cả tính. Nhận xét của ông Tôn Thất Đường trong Báo Nhớ Huế, hội Huế Orleans, Xuân Giáp Thân 2004 là một nhận định rất thẵng thắn, trong năm qua đã được nhiều hội Huế cũng như đồng hương Huế và thân hữu đồng tình ủng hộ: “ Trong sinh hoạt cộng đồng thiên về tình cảm tương thân tương ái của Đồng hương Huế và Thân hữu, duy trì cụm từ ‘THỪA THIÊN HUẾ’ là duy trì một não trạng tiêu cực, một lề thói đối xử phân biệt đã lỗi thời và lạc hậu. Nó gây ra tâm lý kỳ thị, chia rẽ và mặc cảm hơn kém giữa nhà quê và thành phố hoàn toàn không đúng đắn. Ngoài ra nó còn bất chấp một hiện trạng đã bị thực tế bác bỏ và vượt qua từ lâu. Đó là sự thành công và chất lượng cuộc sống của người Huế hiện nay tùy thuộc vào tài năng, sức phấn đấu và bản chất của mỗi con người chứ không phụ thuộc vào gốc gác là Thừa Thiên hay Huế.” (Sđd. Tr. 72)

Nói đến văn hóa là nói đến một thực thể bao gồm ba mặt: Truyền thống, con người và lối sống. Chính cái mới, cái lạ, cái khác, cái độc đáo trội bật trong ba mặt nầy là chất liệu điển hình xây dựng bản sắc của văn hóa. Martin Almond trong loạt bài nhan đề The Vanishing Arctic (Bắc Cực Mù Khơi), nói về bản sắc văn hóa độc đáo của giống người Eskimo xứ tuyết vùng Bắc cực, nhận xét rằng: “ Một nền văn hóa thiếu bản sắc cũng giống như một đồng tuyết vùng bắc cực vắng bóng những vòm trốn tuyết kỳ lạ của người Eskimo. Những biển tuyết một màu trắng mênh mông nối nhau kéo dài đến vô tận, biết đâu và tìm đâu ra dấu vết của truyền thống, con người và lối sống…”

Đất nước Việt Nam có ba miền Bắc Trung Nam. Mỗi miền và mỗi điạ phương đều có một bản sắc văn hóa riêng. Văn hóa là câu chuyện truyền đời tính bằng thế kỷ. Từng thời đại, từng khuynh hướng và từng công trình nghiên cứu có một cách nhìn riêng về bản sắc văn hóa. Hà Nội, Huế, Sài Gòn… trong cái chung của truyền thống văn hóa dân tộc, vẫn có từng nét riêng. Mong rằng, những Đại Hội Văn Hóa như thế nầy là một dịp rất tốt để chúng ta cùng nhau nhìn về gia tài văn hóa dân tộc qua cái nhìn khám phá, tìm tòi, nối kết để văn hóa trở thành một nguồn suối sinh động có kế thừa và có tác dụng thực tiễn chứ văn hóa không phải chỉ là một câu chuyện thần tiên để kể hay một tượng đài hoang phế giữa thời gian.

Trần Kiêm Đoàn

Trích tham luận đã trình bày tại “DIỄN ĐÀN KHOA HỌC:
Tiếng Huế – Con Người Huế và Văn Hóa Huế”
Chuyên Đề III. Số 5. Ngày 14-6-2004

Bài viết liên quan