CHƯƠNG MƯỜI CHÍN – Bụi Tình

  Đêm chia tay trên sông.  Dòng nước sông Hương mềm lại.  Bến bờ chìm sau biển sương mù và khói nước ven sông vây phủ như thế giới chỉ còn hai con người trong lòng thuyền đang sống.  Cảm giác có nhau trong tay và nhớ nhau ngày sắp tới khiến những người tình chưa xa mà đã nhớ.  Họ muốn hong khô những giọt nước càng thấm càng đầy làm trôi nổi dòng cảm xúc.  Dù đã cho và nhận tận tình trên xác thân không tiếc nuối, họ vẫn muốn gửi nỗi thương nhớ còn quyến luyến vào mớ hành lý mai sau.  Nỗi say mê không đong hết được khi tâm lý níu kéo dùng dằng ra đi và ở lại đang diễn ra trước bình minh của một ngày đang tới và sẽ lùi dần vào một buổi chiều chia xa.  Ba Gấm sẽ khởi hành đi Hàng Châu trước khi trời tối. Từ cửa biển Thuận An, đoàn thuyền buôn của Ba Gấm sẽ căng buồm nương theo gió mùa, trực chỉ mé Đông Bắc. Nếu thuận buồm xuôi gió thì chỉ trong ba ngày đêm là tới đảo Hải Nam.  Từ đó, thuyền sẽ chạy ven theo bờ biển Trung Quốc trong cuộc hải hành xa nghìn dặm đến vịnh Hàng Châu.

            Tiếng reo hò của đám vệ binh tuần tra thủy diện làm Trí Hải choàng tỉnh dậy.  Nỗi ám ảnh nặng nề đối với Trí Hải trong lúc nầy là sự tưởng tượng cảnh quân sĩ tuần tra phát hiện được Ba Gấm và Trí Hải đang tư tình với nhau trên một chiếc đò buông lái giữa thượng nguồn sông Hương. Thuyền quan quân gươm giáo tua tủa đang tiến nhanh về phía đò của Ba Gấm và Trí Hải.  Với bản chất tự tin và trầm tĩnh đến độ lạnh lùng, Trí Hải ngồi nhìn đăm đăm những ánh lửa đang nhấp nhô di chuyển về phía mình.  Dường như trên những đốm lửa phù du đó mọc lên lắm cảnh hệ lụy phi lý của kiếp người: Hận thù đối mặt với yêu thương, kềm kẹp đối mặt với tự do, xảo trá đối mặt với chân thành, bạo động đối mặt với bình an, đau khổ đối mặt với hạnh phúc… Trí Hải nhắm mắt lại trong cảm gác bàng hoàng chợt đến là tại sao mình phải đứng trước hoàn cảnh nầy.  Bên nầy là nỗi đam mê tận tình của khát vọng hồn nhiên; bên kia là danh vị cao sang của người đời quy ước.  Khi sự lựa chọn là con đường nghịch chiều, kẻ được chọn lựa thường đứng trước ngã ba: Ngã ngược, ngã xuôi và ngã thoát!  Trí Hải cần một ngã thoát mà tìm mãi chưa ra.

Ba Gấm lách mình ra khỏi mui đò với dáng nhẹ nhàng và thản nhiên mà trong bóng tối không ai hình dung được vẻ mặt Ba Gấm là đang cố đương đầu hay sợ hãi.  Thuyền tuần tra đã cặp sát vào đò Ba Gấm.  Người đội trưởng tay cầm cây đèn gió đang cháy phừng phực, tay kia cầm đại đao cán dài nhảy lên trước mặt Ba Gấm hỏi bằng một giọng đầy thị uy uy gần như nạt nộ:

            – Ai là chủ đò?

            Ba Gấm trả lời bằng cái giọng bất chấp của một người kẻ cả:

            – Ba Gấm!

            Viên đội trưởng tuần tra gằn giọng hỏi dồn:

            – Ba Gấm là tên nào? Ở đâu? Làm nghề gì?

            Ba Gấm trả lời với vẻ lạnh lẽo và cứng rắn:

            – Ngươi không cần biết.  Quan tổng giám sát đội phòng ngự thủy diện của ngươi ở đâu, ngươi cấp tốc đi trình báo đến đây nói chuyện với ta.

            Người đội trưởng tuần tra có vẻ như đã quen với sóng nước giang hồ, nhận ra ngay sức mạnh quyền thế trong giọng nói của người đàn bà đang đối diện với mình, xuống giọng hỏi lại:

            – Bẩm, thế thì xin hỏi phu nhân đây quý danh là gì ạ?

            – Ba Gấm.

            Người đội trưởng không hỏi thêm gì nữa và nhanh chân lùi lại phía thuyền mình với quân lính canh phòng vẫn còn án binh bất động, đốt đuốc đợi chờ.  Trong một khoảng ngắn thời gian hút chưa tàn điếu thuốc, thuyền lớn chỉ huy đã cặp vào đò Ba Gấm. Quan tổng giám sát nhẹ nhàng bước sang đò Ba Gấm, niềm nở chấp tay vái chào thân mật một cách lịch thiệp:

            – Dạ, trình phu nhân, xin phu nhân thứ lỗi cho tên tiểu tốt đội trưởng.  Hắn vừa mới được thuyên chuyển từ ải xa về nên chưa biết đại danh của phu nhân.  Hạ quan xin phu nhân đừng chấp nhất.

            Ba Gấm tươi cười đáp lễ:

            – Chuyện nhỏ, xin quan tổng đừng bận tâm. Tiện thể, có món quà nhỏ xin biếu quan tổng lấy thảo.

            Quan tổng đã quá quen thuộc với những “món quà nhỏ” như thế nên càng hăm hở chấp tay vái tạ:

            – Cảm đội ơn phu nhân.  Phu nhân lúc nào cũng hào sảng, chu đáo hèn gì quan quân người người đều cảm phục.

            Quan tổng nhét vội hai nén bạc vào hầu bao và cung kính kiếu từ qua thuyền mình rồi ra lệnh cho toán thuyền tuần tra tránh xa khu vực quanh thuyền Ba Gấm.

            Chưa quen với lối ứng xử đầy vẻ giang hồ một cách bất thường, Trí Hải mở to mắt theo dõi sự việc đã diễn ra trước mắt, lên tiếng hỏi:

            – Sao một vị quan của triều đình nắm quyền tuần tra trên mặt sông lại có thể khúm núm trước mặt Ba Gấm đến như thế? Vì sợ uy quyền của quan Chánh Chưởng chăng?

            – Không phải đâu huynh ạ. Quyền hạn của quan chánh chưởng đâu có lan xa đến những vùng sông nước hẻo lánh như thế nầy.

            – Nếu vậy thì uy quyền của Ba Gấm là do đâu mà có?

            Ba Gấm cười nhẹ:

            – Chuyện chen chúc giữa đời nhiều khi không đáng để bận tâm huynh ạ. Mà huynh cần biết để làm gì cho mệt trí?

            Trí Hải lắc đầu vì sợ bị hiểu lầm là thóc mách, lên tiếng:

            – Ồ không. Tôi chẳng có ý tò mò hay phê phán em đâu.  Nhưng thắc mắc vì tự mình không tìm ra lời giải đáp hợp lý đó thôi.

            Ba Gấm trả lời gọn lỏn:

            – Tiền!

            – Chỉ thế sao?

            – Dạ phải.

            Một phản ứng tâm lý gần như bất bình chạy vào ý nghĩ của Trí Hải.  Quen với đời sống cung đình và hoàng phủ, Trí Hải chỉ biết mọi việc trên bề mặt huy hoàng của phấn son, trang hoàng và nghi lễ.  Những chuyển động thực sự nấp sau dáng vẻ uy nghi và nghiêm cẩn thật là khó hiểu.  Trí Hải cảm thấy như chính lòng tự trọng của mình bị thương tổn khi biết quan quân triều đình cũng bị đồng tiền sai khiến.  Trí Hải hỏi một cách nghiêm nghị:

            – Như thế có nghĩa là Ba Gấm đã đút lót, hối lộ phi pháp cho các viên chức triều đình, phải không?

            Ba Gấm đọc được vẻ căng thẳng và hoài nghi trong lời của Trí Hải nhưng vẫn hồn nhiên và tươi cười giải thích:

            – Dạ, huynh.  Trên cao nhìn xuống thì có lẽ tiền cho quan tổng là hối lộ và phi pháp, nhưng đi vào đời sống thực tế thì đó cũng chỉ là chuyện đời thường. Huynh nhìn quanh kinh thành và các vùng lân cận sẽ thấy.  Nếu chấp hành đúng phép công thì bất cứ quan nào xây phủ đường, xây dinh thự đều đáng tội nghiêm trị, lưu đày hết. Lương của các quan chưa đủ nuôi sống và sắm sửa xe ngựa, áo gấm, tường loan… cho bản thân và con cháu đầy đàn, năm thê bảy thiếp, làm gì có tiền dư để xây phủ, xây dinh.  Hơn ai hết, huynh đã biết rõ quy chế lương bổng của triều đình rồi. Thế thì tại sao làm quan lớn, giàu lớn; làm quan nhỏ, giàu nhỏ.  Ai làm quan chức cũng sung sướng giàu sang là do đâu. Tiền của từ đâu ra? Nếu không phải là tiền hối lộ, ăn cắp, xoay xở, cắt xén, bòn rút từ mồ hôi nước mắt của dân đen thì chẳng lẽ tiền từ trên trời rơi xuống?

            Trí Hải có cảm giác lành lạnh từ đỉnh đầu chảy dài xuống xương sống.  Sự thật phơi bày quá rõ ràng.  Càng che càng rõ.  Cái lá chắn cuối cùng là bám vào cụ Khổng để trấn áp mầm mống phản kháng. Phải mang hai hàng rào kiên cố là cha và thầy để làm vòng đai an toàn cho vua.  Ba dây cương là quân, sư, phụ hợp tác với năm đức hạnh ngũ thường… là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín trở thành cái gông tinh thần vô hình chụp xuống đầu người dân. Người ta phải sống gương mẫu để tôn thờ và cung phụng guồng máy vua quan cầm quyền.  Trí Hải ôm đầu.  Ba Gấm hốt hoảng:

            – Huynh ơi! Em xin lỗi đã làm huynh lo nghĩ.  Quên hết đi anh.  Đeo mang chuyện đời làm mình mất vui.  Chỉ còn những giờ hạnh phúc ngắn ngủi bên nhau. Tối nay em đi rồi.  Thương nhau đi…

            Trí Hải hôn Ba Gấm thật đậm.  Nói trong mơ hồ:

            – Đi về đâu, em?  Ta lạc đường mất rồi. Bao năm, ta nuôi mộng trung quân ái quốc, thương dân hơn thương cả bản thân mình. Nhưng ta đã tự chôn mình giữa những đống sách để mong tìm đường giúp nước, cứu đời. Tìm đến phương Tây, Tây chỉ muốn thay chủ đổi ngôi, nuôi hoàng tử Cảnh để biến vị vua tương lai thành bù nhìn mặt Nam dạ Pháp. Tìm về phương Đông, Tàu chỉ muốn biến nước ta thành châu quận. Tìm về đạo Nho, Nho chỉ dạy cúi đầu bóp bụng thờ vua. Tìm về đạo Phật, Phật dạy phải từ bỏ trần gian nầy để tìm phương giải thoát nơi miền cực lạc.  Biết về đâu?  Hai phần đời đã xế.  Về bên em, Ba Gấm ơi, ta có muôn nghìn hạnh phúc.  Nhưng hạnh phúc nầy cũng chỉ là canh bạc lận dẫu sớm muộn cũng phải đến hồi kết cuộc. Em và tôi đang cỡi mây đi ngoài bốn biển, rồi sẽ rơi xuống nơi đâu.  Ai biết…

            Ba Gấm áp má mình lên môi Trí Hải, nước mắt ràn rụa:

            – Em hiểu anh, cả thể xác lẫn tinh thần.  Rồi em cũng sẽ già và thân xác nầy rồi cũng xám tro như thân gỗ mục.  Em cũng đã từng trăn trở đi tìm một hướng đời cho có ý nghĩa sống như anh.  Ước mơ mình thì cao quá mà cuộc đời nầy thì lạnh lẽo và tầm thường.  Với thân phận đàn bà, em chỉ biết kéo ước mơ về hiện thực.  Em cố kéo ước mơ về lại trần gian nầy.  Em cố nhìn trần gian nầy như một quê hương tươi đẹp.

            Nét cương nghị ánh lên trong đôi mắt Ba Gấm. Trí Hải nhìn lên, chưa bao giờ Trí Hải thấy Ba Gấm đẹp như lúc nầy.  Ngạc nhiên, Trí Hải kêu lên:

            – Đẹp!  Em đẹp quá.  Có phải vì quê hương tươi đẹp trong lòng em đang làm em đẹp lên không?

            – Cám ơn anh đã khen em.  Em không biết, nhưng em đã giữ đẹp quê hương bằng cách riêng của mình.

            – Bằng cách nào?

            – Bằng cách thỏa hiệp với cuộc đời.  Em cứ cho như đời không đẹp mà cũng chẳng xấu; không khổ mà cũng chẳng sướng.  Em mặc cho đời bằng chiếc áo của em.  Em đã làm giàu công khai và lương thiện.  Em lấy tiền của đời và trả lại cho đời.  Em không dùng tiền như đốt pháo bông để làm vui cho đời mà coi tiền của như một phương tiện cứu người khốn khó.

            – Người ta có thể vừa làm giàu mà cũng vừa lương thiện được không?

            – Dạ, theo em thì được huynh ạ.  Như cây kỳ Nam cổ mộc của Tâm An chỉ là cây rừng hoang dã nhưng đem về bán giá nghìn vàng.  Những bức thư pháp của các nhà danh họa Trung Hoa có thời chỉ đổi lấy con vịt, con gà nhưng kẻ biết sưu tầm thành ra vô giá.  Đất ruộng Giang Nam xưa trồng lúa trồng khoai chỉ đủ ăn ngày hai bữa, nhưng có người khai thác trồng quýt trồng cam thu lợi gấp trăm gấp vạn lần.  Hàng hóa gấm vóc, tơ lụa của Ba Gấm bán đắt gấp nhiều lần thiên hạ đâu phải là sự tình cờ hay ép buộc.  Nhưng để được giá cao như vậy em đã vận dụng hết hiểu biết và kinh nghiệm của một thời cung nữ,  học về cái đẹp trong tận cùng khổ nhục. Và đêm nay, em sẽ lên thuyền đi Hàng Châu để chọn mặt hàng.  Biển khơi xa nghìn dặm, em có thể bỏ mạng trong giông bão dọc đường ai biết được.  Muốn giúp đời, em cần phải phương tiện. Phương tiện trước mắt mà không cần tìm kiếm đâu xa là của cải vật chất.  Nhưng vật chất giúp mình và giúp đời chỉ có ý nghĩa  khi được làm ra một cách lương thiện.  Cái giàu bất lương làm bằng dối lừa và mưu kế làm sao sánh được với cái giàu lương thiện làm nên do trí tuệ và tài năng.

            – Đúng vậy.  Xưa nay không ai cấm làm giàu một cách chính đáng và lương thiện.  Ngay như đạo Phật coi mọi giá trị vật chất chỉ là hư giả, có là không, thế nhưng đức Phật vẫn khen ông trưởng giả Cấp Cô Độc, người đã đem vàng trải ra để mua khu vườn quý của thái tử Kỳ Đà làm nơi thuyết pháp cho Phật và tăng chúng.

            – Dạ, cám ơn sự nhắc nhở đầy ý nghĩa của anh.  Nhưng em không dám đi xa hay làm được điều gì to lớn hơn mà chỉ nguyện góp một bàn tay nhỏ vào việc giúp người nghèo khó, hoạn nạn. 

            – Ba Gấm đã cứu được ai và ai là người khốn khó?

            – Em đã cho và không đợi chờ nhận lại.  Người em cho không biết là ai, nhưng em biết đích xác họ là những người khốn khổ.  Người nhận cũng chẳng cần biết ai cho, điều họ cần biết là có manh áo, miếng ăn trong cơn khốn khó.

            Trí Hải buồn bã thở dài:

            – Tôi đang ở đâu đây? Bao nhiêu chữ nghĩa… rốt cuộc, chỉ là một kẻ lạc đường!

            Ba Gấm ôm đầu Trí Hải, nhìn thẳng vào đôi mắt thăm thẳm ưu tư:

            – Huynh! Không đâu.  Huynh không lạc đường khi tấm lòng của huynh còn đầy ắp yêu thương.  Không phải chỉ thương em mà thương tất cả…

            – Mơ hồ quá! Trái tim thương yêu chỉ mới là con thuyền trống. Thuyền biết chở ai về đỗ bến nào mới là thật sự yêu thương.

            – Đúng!

            – Đúng là thế nào?

            – Là đem yêu thương về chính giữa cuộc đời gió bụi nầy.  Địa ngục là đây mà thiên giới cũng là đây. Con người thuộc về trần gian nên phải đem con người về lại giữa trần gian. Muốn lên thiên giới hay muốn về địa ngục, con người cũng phải qua ngõ trần gian nầy trước đã.  Quên trần gian để bước thẳng lên thiên giới là ảo tưởng của những tâm hồn mờ mịt niềm tin. Phi tiểu nhân bất thành quân tử.  Nếu đời sống chỉ có toàn là quân tử hay tất cả đều là tiểu nhân thì làm gì có hai bờ đối đãi, tiểu nhân hay quân tử. Nếu không ai có tội thì làm gì có đấng chuộc tội. Đời không đau khổ thì làm gì có đấng cứu khổ.

            – Hay lắm! Rất luận hành minh triết. Nhưng đâu là cửa ngõ để bước vào dòng đời thật sự đau khổ hay hạnh phúc.  Biết bắt đầu từ đâu trong cuộc hành trình êm đềm mà khốc liệt nầy?

            Ba Gấm đặt cả đôi bàn tay êm như gấm vuốt má Trí Hải, trả lời thờ ơ:

            – Em không biết nữa. Bên huynh, bên em, phút nầy chúng ta đang sống trong chiếc võng hạnh phúc của cõi trời.  Nhưng tối nay, khi em đi, đời vắng nhau rồi, sự nhớ thương sẽ đưa mình về… về địa ngục.

            – Thế thì cõi lành cũng ở nơi đây mà cõi ác cũng ở nơi đây…

            Trí Hải ấp bàn tay của Ba Gấm đưa lên ngực mình, nơi trái tim đang gõ từng nhịp đời dồn dập.

            Ba Gấm nhắm mắt, tựa đầu lên ngực Trí Hải, nói nho nhỏ:

            – Em nghe.

            – Nghe gì em?

            – Nghe tiếng tim anh đập, nghe sự sống của anh.

            – Rồi sao nữa?

            – Trái tim chẳng biết nói gì hết ngoài những nhịp nhặt khoan vô nghĩa.

            – Em đang nghĩ gì?

            – Không. Thế anh đang nghĩ gì?

            – Không!

            – Em cảm thấy quá hạnh phúc trong cái “không” nầy anh ạ.

            – Anh cũng vậy…

            – Thế làm sao kéo dài cái “không” vô tận hở anh?

            – Anh không biết. Em biết?

            – Không! Bộ anh biết sao?

            – Không!

            Cả hai ngồi im lặng bên nhau mà trong nhau.  Sự tĩnh lặng mong manh dần dần tan đi với mặt trời xế bóng.

 

***

 

            Mộng tưởng cứu cánh… thường xuất phát từ niềm tin tôn giáo.  Tôn giáo là một ảo tưởng trong mắt nhìn trần trụi.  Nhưng tôn giáo là một thế giới hứa hẹn, thế giới mơ ước, thế giới bên kia trong niềm tin và hy vọng của tâm linh.  Muốn qua thế giới bên kia cần phải có một chiếc cầu.  Chiếc cầu không hình, không tướng, không sắc, không thanh, không màu, không ở một nơi nào cả.  Bởi vậy, chẳng có một thi nhân, văn nhân, họa sĩ tài hoa trác tuyệt nào có thể diễn đạt hay mô tả được chiếc cầu ấy một cách chân xác.  Chiếc cầu có có, không không trong rỗng lặng, trong cảm niệm, trong quán tưởng.  Khi tất cả mọi cánh cửa của trí óc mở rộng; mọi rào chắn của tâm hồn phá bỏ; mọi suy tư và định kiến có từ muôn thuở tan đi thì vùng đất bên bờ nầy chợt hé ra để có được một khoảng trống làm đầu cầu. Có lúc, chiếc cầu chợt ẩn hiện đâu đó trong vô thức, trong tiềm thức, trong ý thức, trong cảm xúc, trong nụ cười, trong tiếng vọng, trong tình yêu, trong thù hận… trong tất cả. Chiếc cầu có khi chỉ là gang tấc; nhưng cũng có khi dài vô tận.  Bao nhiêu người vịn thành cầu, đứng trên cầu, đi qua, đi qua, rồi đi qua… Có kẻ qua được bờ bên kia, có kẻ đứng lại bên cầu, có người vịn cầu chờ đợi và cũng có kẻ đi hoài không tới.

            Tình yêu say đắm hay cảm xúc mê say thường chiếm hết khoảng không của trí óc và chiều sâu tâm hồn con người.  Khi yêu, những người trong cuộc tình thường say mê chết lặng hay rên rỉ trong tình yêu. Những nghệ sĩ được xem là những người có khả năng và phương tiện rên rỉ bằng nghệ thuật điêu luyện, nên thơ tình, nhạc tình, tranh tình, hát tình… thường có độ rung đầy cường điệu dễ làm say đắm lòng người. Đắm trong suối tình, ướt đẫm đến từng chân tóc, không còn một khoảng trống nào để cho tạo vật và niềm an lạc thanh tịnh chen vào.  Và cứ thế, con người vật lộn liên tục với cảm xúc nung nấu phóng ra và dội lại như con thoi cho đến ngày thân xác tan rã.  Ba Gấm và Trí Hải cuốn hút nhau trong cơn lốc tình cảm.  Khi cuộc tình chuyển qua một khúc quanh, cả hai người tình chợt khám phá ra một thoáng mắt lặng gió. Trong giây phút sắp chia tay, họ không bám víu những gì đã qua, chưa biết gì sắp xảy đến.  Họ vừa đang có nhau mà cũng vừa đang mất nhau.  Cả hai chưa có một vọng tưởng nào ngoài khoảnh khắc hiện tại. Họ mở bung hết ngọn nguồn cảm xúc cả tinh thần lẫn thể chất, ngồi bên nhau như hai cụ già đã quá vãng và như hai đứa trẻ chưa sinh trong hiện tại nên chẳng có gì để bám víu, dù là ảo tưởng.  Chính sự đồng cảm trong cái “không” tuyệt đối đã đưa họ tới suối nguồn hạnh phúc.  Nhưng cái không của họ mới chỉ là cái tâm không dính mắc xảy ra trong thoáng mắt.  Không có ai trong cả hai người tình có đủ sức mạnh để giữ lại được thoáng giây hạnh phúc ấy lâu hơn. Từ trong hạnh phúc, cả hai đều cảm nhận được mặt đối nghịch nằm khuất ở phía bên kia của đời sống thoáng nhe răng cười bóng hạnh phúc phù du của họ.  Cái-không-hạnh-phúc lóe lên như một sự nhắc nhở tất cả chỉ là vô thường. Hạnh phúc giữa vô thường là cái bóng trêu ngươi trước khi biến vào nẽo khuất.

            Chỉ còn một người thân duy nhất trong đêm là mặt trăng mùa đông hiếm hoi, nhưng rồi trăng là của muôn phương nên cũng từ từ lặn mất.   Ba Gấm đã giương buồm ra khơi từ chặp tối.  Phạm Xảo vẫn ngủ say dưới một mái nhà nhưng ý nghĩ và cảm xúc đã rời xa Trí Hải hàng bao nhiêu vạn dặm trường.  Đầu hôm chợp mắt được một lát, tiếng động răng rắc của ngôi nhà quá cũ kỹ không chống đỡ nỗi với gió mạnh đã vực giấc ngủ dậy.  Trí Hải chong mắt nhìn trăng lặn, đợi đêm tàn và chờ sáng.

            Trong sương mù của ý nghĩ, tiếng chuông chùa Thiên Mụ vỡ lạnh cả hư không.  Tiếng chuông về đâu.  Không có một miền trú xứ. Âm thanh như một đời người, nó từ không mà có; rồi trở về không… Chú tiểu công phu sớm, cái chày kình mòn nhẵn nửa đầu, cổ chuông đúc từ thời chúa Nguyễn, một không gian vắng lặng, thẻ đếm chuông xâu chuỗi xếp hàng, một bàn tay lần thẻ và tay kia thong thả dộng chuông, và tiếng gió, tiếng đêm, tiếng dế cũng góp phần thai nghén, sinh đẻ, tạo tác tiếng chuông.  Tiếng chuông từ tất cả, của tất cả mà cũng chẳng thuộc về ai.

            Làm người có nhiều nỗi khổ, nhưng cái khổ âm thầm mà dằn vặt nhất là nỗi khổ suy tư.  Nỗi nhớ trong tình yêu là cơn chớp giật sấm sét của suy tư. Nhớ không còn là một cảm giác mong ngóng hay ham muốn được đền bù để khỏa lấp khát vọng thèm thuồng mà là một sự quay quắt.  Cảm giác quay quắt tê dại như một nửa phần thân thể bị ai cắt đi.  Trí Hải nhớ Ba Gấm.  Tất cả những cánh cửa gần như khép lại.  Bầu trời lồng lộng, sông núi, cỏ cây, đều bị cái lạnh lẽo khép lại sau màn sương dày đặc.  Chỉ có một cánh cửa ấm.  Còn mở.  Đó là nỗi nhớ. Nỗi nhớ cũng dày đặc mà không nắm bắt được, mơ hồ như khói, như sương, giữa hai người tình.  Họ càng xa nhau, càng nghĩ đến nhau nồng nàn và gần gũi trong tâm tưởng.  “Ba Gấm! Ba Gấm!” Trí Hải kêu lên không thành tiếng.

            Nỗi nhớ càng mênh mông, trí tưởng như càng đặc quánh lại. Trí Hải chỉ thấy đôi mắt đẹp muôn trùng của Ba Gấm đang từ biển khơi sóng gió hướng về mình. Đôi môi yêu thương chực nhoẻn những nụ cười tươi mới, nói những lời mơn trớn dịu ngọt và hé ra chờ đợi. Thân thể nồng nàn vật vã và quấn quyện của những loài thú mắt nai, trườn mình nơi rừng xanh làm động núi giữa mùa tình.

            Bỗng như có một luồng gió lạ vừa thổi tới, Trí Hải quắc mắt nhìn bóng đêm. Bóng tối che hết cả vạn vật cũng như tình yêu cuốn lấy một người làm cho trái tim bị quấn những vòng dây êm ái quá.  Khi trái tim chỉ còn biết rung động trong vòng quấn giới hạn thì tín hiệu yêu thương cũng rất khó trãi dài ra ngoài cung cấm của nó.

            Ráng hồng vừa hiện lên sau bóng hàng cây còn đen đặc bóng tối. Bình minh không đồng lõa với bóng tối.  Gươm giáo, hận thù, la hét, cuồng nộ không bao giờ giết được bóng tối.  Ánh sáng tự nó là ánh sáng, không nhân danh mặt trời mà cũng chẳng tô màu đặt tên cho chính nó. Ánh sáng chỉ cần yên lặng bước tới là bóng tối đi lui hay tan dần.  Ngước nhìn bình minh, Trí Hải tự hỏi, nếu tình yêu và sự đam mê cũng dày đặc và bủa vây như bóng tối thì cần có một thứ ánh sáng nào giải phóng được trái tim đang đắm đuối.  Ngồi bó gối nghĩ hoài không ra.  Mặt trời lên cao, cao tới đỉnh đầu, chếch về phía Tây và sắp lặn. Mặt trời chao đảo trong mây, lấp lánh giữa biển sương vàng, tỏa hết hào quang trên đỉnh núi phía Tây trước khi lặn xuống như cũng đành chịu lạnh tanh, câm nín với số phận. 

            Nhìn mặt trời sắp lặn, Trí Hải cảm thấy bất an. Nỗi sợ hãi bóng tối quá mênh mông.  Khi bóng tối dấy lên tự trong lòng, Trí Hải chỉ còn biết hướng vọng về một đối tượng từ bên ngoài để đi tìm ánh sáng.  Trí Hải ngước nhìn về phía Tây, đỉnh núi Kim Phụng buổi chiều nằm lẫn trong mây.  Mây ửng vàng pha tím xếp thành tầng trên đỉnh núi cao.  Càng nhìn đăm đăm, mây núi càng gần lại. Gần đến nỗi Trí Hải cảm thấy như bàn chân của mình đang bước lên tầng thứ nhất. Trí Hải đứng dậy, nhón lên cao.  Đôi mắt trong suốt và nụ cười từ ái của sư Trúc Lâm hiện ra từ sau dãy núi phía Tây.  Những ngọn sóng thét gào trong lòng Trí Hải dịu xuống.  Ảo giác không hoang tưởng trở thành sức mạnh tinh thần vô địch khi một người không đầu hàng với hoàn cảnh, phải vươn lên cho bằng được từ trong cô đơn.  Phá tuyệt vọng là cuộc chiến đấu oanh liệt nhất bên bờ sinh tử.

Trí Hải đắm mình trong suy nghĩ nhưng đôi mắt vẫn nhắm thẳng hướng núi Kim Phụng, men theo con đường mòn đã quen mà cất bước ra đi.

            Trí Hải qua khỏi đồi sim dẫn vào chân núi thì trời đã tối mịt.  Trăng lên đầu núi thanh tuyền và uy nghi với ánh sáng dịu dàng, nhưng cũng đầy ngự trị. Hơi đá lạnh.  Sương núi chập chùng bắt ánh trăng lọt qua kẻ lá. Núi rừng càng sâu, hơi lạnh càng dày.  Đôi chân tiến bước thoăn thoắt, Trí Hải nhìn xuống lối mòn khi ẩn, khi hiện trong từng lớp lớp sương trăng.  Khi cái chí đã vươn cao đầu núi, Trí Hải cảm thấy bước đi của mình trên đường rừng sỏi đá nhẹ nhàng và đầy năng lực như “đằng vân”, lướt mây mà đi vào vùng trời mong tưởng.

Nhớ khi xưa Trí Hải vẫn thường thắc mắc rằng, đường qua Tây Trúc thỉnh kinh của Huyền Trang gian lao quá.  Phải mất 17 năm trường và vượt qua 81 khổ nạn mới thỉnh được những tạng kinh điển Phật giáo về phương Đông.  Trong lúc Tôn Ngộ Không với 72 phép thần thông biến hóa không lường, có khả năng đại náo cả cung Trời, chỉ cần một cái phất tay, dùng cân đấu vân cỡi mây, lướt gió là đã thừa khả năng đi đến cõi Trời.  Thế thì tại sao Tôn Ngộ không chẳng cõng thầy Huyền Trang đi đến Tây Trúc chỉ trong vòng nháy mắt mà phải gian lao đánh yêu, diệt quỷ trong một khoảng thời gian dài đến như thế!

Trí Hải lắng nghe tiếng bước đi xào xạc của mình trên lá khô như tiếng giục giã của thời gian đang thúc hối con người đi tìm một sự cứu rỗi ngay giữa trần thế đầy bụi bặm này.  Bốn thầy trò Đường Tăng là một hợp thể của con người trần gian bằng xương bằng thịt.  Con người hội đủ tâm hồn, trí tuệ, tài năng, tham lam, sân hận, si mê, hiếu sinh, hiếu sát.  Tôn Ngộ Không có đủ thần thông để đi khắp sáu cõi luân hồi, nhưng vẫn say mê trần gian, tha thiết làm người vì không có nơi đâu đẹp não nùng và đáng yêu quằn quại bằng chốn trần gian nầy cả.  Muôn phương vì trần gian mà lại.  Trần gian vì muôn phương mà đi.  Con người sinh ra giữa chốn dương trần chẳng phải là tình cờ, mà cũng chẳng phải là số phận do một đấng siêu nhiên nào đó đặt định.  Cuộc đời chẳng qua là một sự dừng chân tạm bợ để tính toán cấp thời những món nợ đang đeo nặng và chồng chất trên vai mà người ta thường gọi là “nghiệp.”  Khi tạm thời được hoàn cảnh buông thả để tiến bước, người ta ra đi… tiếp tục cuộc hành trình.

Trí Hải vẫn bước đi giữa lối mòn của rừng núi, giữa trần gian với trái tim đầy ắp yêu thương.  Yêu mình, yêu người và yêu cuộc sống.

 

 

 

Tu Bụi

Truyện dài

Bài viết liên quan